Luận cứ 13: Theo trang mạng của Thư viện Hoa sen: Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đề cử tôn giả A Nan Đà kết tập kinh điển và được đại chúng nhất trí. Tôn giả A Nan Đà lần lượt kết tập các kinh sau đây: Tăng nhất, Tăng thập, Đại nhân duyên, Tăng kỳ đà, Sa môn quả, Phạm động và những kinh Phật thuyết giảng cho Tỳ kheo,Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Những kinh dài kết tập thành một bộ gọi là Trường A hàm. Những kinh trung bình kết tập thành một bộ gọi là Trung A hàm. Những kinh nói cho nhiều đối tượng như: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di được kết tập thành một bộ gọi là Tạp A hàm. Những kinh lần lượt nói từ một pháp tăng dần đến mười pháp kết tập thành một bộ gọi là Tăng nhất A hàm. Các kinh nói bao quát nhiều vấn đề thành một bộ gọi là Tạp tạng.
Thế rồi tôn giả Ma Ha Ca Diếp tuyên bố: Chúng ta đã kết tập xong giáo pháp. Từ nay những gì Phật không chế định thì không được tùy tiện chế định, những gì Phật đã chế định thì không được vi phạm. Chúng ta phải kính cẩn học tập những gì Phật đã chế định.
Đây là các tài liệu cổ nhất, đánh dấu bước đầu hình thành Chánh tạng Pàli. Tạng kinh nầy là căn bản cho Phật giáo Nguyên thủy. Hoàn toàn không có Tạng kinh của Đại thừa.
Luận cứ 14: Điều ngự giác hoàng, Trúc lâm Đại đầu đà Trần nhân Tông không tin kinh: A Di Đà và kinh Vô lượng thọ là lời Phật dạy, qua hai câu sau đây của bài phú “Cư trần lạc đạo”:
Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc.
Luận cứ 15: Kinh Tứ niệm xứ, tụng bản 3, (Tứ niệm xứ, 241,243) có câu: “vô sở ý, bất khởi thế gian tưởng, dĩ bất khỏi tưởng tiện vô bố úy, dĩ vô bố úy tiện vô dư, dĩ vô dư, trừ khử loạn tưởng tiện Niết bàn”.
Câu kinh trên có khí vị như “Tâm kinh Bát Nhã”. Đó là: “tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết bàn”. Như vậy phải chăng “Tâm kinh Bát nhã” nói riêng và kinh Đại thừa nói chung được suy diễn từ kinh Nguyên thủy ?. (T.n.x. tr. 37)
Luận cứ 16: Nalinaksha Dutt viết: “Tập kinh Saddharmapundarika, thuộc kinh Pháp hoa của Đại thừa, dùng hai lời tuyên bố của Phật trong kinh Nguyên thủy để chứng minh kinh Đại thừa là lời dạy của Phật”.
* Lời tuyên bố thứ nhất của đức Phật, sau khi giác ngộ là: Phật ngần ngại không biết nên truyền thuyết giáo pháp cho đại chúng hay nhập Niết bàn? (Tăng sĩ Đại thừa giải thích là: giáo lý Đại thừa quá cao siêu nên Phật mới ngần ngại). * Lời tuyên bố thứ hai của đức Phật là: Phật giảng chánh pháp không nhất luật phải như nhau. (Tăng sĩ Đại thừa giải thích là: Phật muốn giảng dạy giáo lý Nguyên thủy trước, rồi kế đó, đổi lại, giảng giáo lý Đại thừa sau).
Cách giải thích như trên để chứng minh kinh Đại thừa là lời Phật dạy rất mơ hồ, không rõ ràng, vì hai câu trên có thể giải thích theo nhiều ý nghiã khác nhau.
Luận cứ 17: Tiến sĩ Suzuki viết: “Đại thừa không phải là lời dạy chính xác của đức Phật, nhưng các tăng sĩ Đại thừa rất hãnh diện về sự kiện nầy, vì đó là một sức mạnh tôn giáo linh động. Như vậy nào có quan hệ gì vấn đề Đại thừa là lời dạy chính xác hay không chính xác của Phật”. Luận Luận cứ 18: J.R. O’Neil viết: “Kinh của Đại thừa hoàn toàn khác hẳn về văn phong, âm điệu, nhưng chúng được nhiều người theo phong trào mới chấp nhận là “Phật ngôn” vì nhiều lý do. Thứ nhât, họ tin rằng đức Phật vẫn hiện hữu, cảm nhận được qua các trạng thái nhập thiền và mộng tưởng và đã giảng các bộ kinh đó. Thứ hai, chúng được xem như sản phẩm từ các tuệ giác Bát Nhã cũng có một căn bản như các bài pháp của đức Phật. Thứ ba, về sau nầy, nhiều người Đại thừa lại tin rằng các kinh đó là lời giảng của đức Phật, nhưng đã được dấu đi tại quốc độ của các loài thần rắn (Naga, Long vương), cho đến khi nào loài người có thể nhận thức được tầm mức quan trọng của kinh thì mới thỉnh được chúng, qua năng lực trong lúc tham thiền.
Luận cứ 19 Ngài Thế Thân, Asanga viết quyển sách: “Pháp tướng Duy thức học” rất nổi tiếng. Ngài đã làm cho Phật giáo Đại thừa phát triễn mạnh mẽ vào thế kỹ thứ 4 và chính ngài cũng từ bỏ Phật giáo Nguyên thủy để tu hành theo Phật giáo Đại thừa. Để biện minh cho nguồn gốc kinh Đại thừa, ngài nói: “Có thể kinh Đại thừa là do một vị nào đó ?. viết ra … và vị đó ?. ắt hẳn đã chứng quả Bồ đề như Phật Thích Ca và như vậy kinh Đại thừa cũng phải được xem như là lời Phật dạy”.
Câu nói trên của cao tăng Thế Thân chứng tỏ là ngài cũng không thể khẳng định kinh Đại thừa là lời Phật dạy, mặc dù ngài sinh trưởng rất gần với thời đại của đức Phật.
Kết luận:
Tăng sĩ Nguyên thủy có đầy đủ lịch sử, kinh sách, tài liệu đề chứng minh kinh Nguyên thủy là lời dạy của Phật. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp và A Nan Đà kết tập lời Phật dạy một cách trung thực, không thêm, không bớt để hoàn tất giáo pháp và luật lệ tu hành của đạo Phật. Trong lần kết tập thứ hai, giáo pháp (Dhamma) bị tách ra làm hai và được sắp xếp lại cho thứ tự, gọn gàng trong 3 tạng Pitaka (basket). Đó là: Tạng kinh (Suttanta), tạng vi-diệu (Abhidhamma) và tạng luật (Vinaya). Đó là Tam tạng Pàli. Trong các lần kết tập kế tiếp, chỉ có tạng luật bị thay đổi chút ít để thích nghi với điều kiện sinh sống và hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ. Chánh tạng nầy là căn bản tu học của đạo Phật Nguyên thủy.
Tăng sĩ Đại thừa không có chứng cớ cụ thể nào để chứng minh kinh Đại thừa là lời dạy của Phật, ngoại trừ những dẫn chứng siêu nhiên, thần bí như đã nói trong luận cứ số 6 và 18. Ngay cả cách tu hành cũng không làm theo lời dạy của Phật như: ăn chay thay vì ăn mặn, đọc kinh bằng tiếng điạ phương thay vì tiếng Phạn (Pàli), mặc y phục khác biệt vân vân. Kinh Đại thừa là do tăng sĩ suy diễn sâu rộng lời dạy của Phật. Nhờ đó triết lý Phật học trở nên linh động và phong phú hơn. Tiêu biễu là: “Trung quán luận” và “Duy thức học”. Kinh Đại thừa cũng giới thiệu nhiều vị Phật và Bồ tát. Các vị Phật và Bồ tát nầy trở thành đối tượng cho việc thờ phượng, giúp thành công trong việc truyền bá Phật giáo Đại thừa.
http://www.daophatngaynay.com/vn/kinh-dien/dai-thua/12033-Nguon-goc-Kinh-Dai-thua.html