Hiện nay làm các công việc đều phải suy nghĩ, đây là tập khí. Người tu hành chân chính, thời gian suy nghĩ như thế càng lúc càng ngắn, trình độ suy nghĩ càng lúc càng thưa dần. Nếu công phu thuần thục, dù việc làm trong ngành nghề nào cũng không cần phải suy nghĩ. Khi trí tuệ hiện tiền thì đâu phải suy nghĩ. Lúc trí tuệ chưa hiện tiền thì không thể lìa khỏi suy nghĩ, nhưng cần phải thu ngắn thời gian, thu nhỏ phạm vi suy nghĩ lại, nỗ lực làm nó giảm nhẹ khiến cho trí tuệ dần dần hiển lộ. Nếu nghĩ tưởng nhiều quá, xa quá, sâu quá thì trí tuệ hoàn toàn không có cách gì hiển lộ được, bởi vì vọng niệm chướng ngại trí tuệ vốn có của tự tính.
Nếu đem giác và mê làm cho rõ ràng, lý luận cũng minh bạch rồi thì nên chân thật mà làm, chân chính hạ thủ công phu. Nên học theo sự vận dụng lục căn của chư Phật Bồ Tát. Mắt thấy là sắc tướng, tai nghe là âm thanh, luyện tập lúc thấy sắc, nghe tiếng, sáu căn đối với cảnh giới sáu trần khởi tác dụng, học không phân biệt, không chấp trước, đây chính là trí tuệ chân thật. Lại học “Không khởi tâm, không động niệm”, tức là tu tâm thanh tịnh, tự tính vốn định. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, không khởi tâm, không động niệm tức là đạt thiền định. Ðịnh huệ chính là ở trong sinh hoạt hằng ngày mà tu, tu ở chỗ sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, đây là từ căn bản mà tu, là phương pháp tu hành cao cấp nhất.
Bốn mươi mốt vị pháp thân Ðại sĩ trong Kinh Hoa Nghiêm, chính là dụng công ở phương diện này, cho nên không gò bó nơi hình thức tu thiền định, không phải là ngồi quay mặt vào tường, mà là lúc sáu căn đối với cảnh giới sáu trần không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước là trí tuệ. Chuyển tham sân si thành giới định tuệ, chuyển phiền não thành Bồ đề. Chúng ta khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước là tham sân si, Phật Bồ Tát không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt chấp trước, khởi tác dụng là giới định tuệ. Ðây tức là vì sao Bồ Tát thường sinh trí tuệ, chúng ta thường sinh phiền não. Phiền não chính là ba độc tham sân si, điều này cần phải biết. Từ vọng tưởng phân biệt mà hồi đầu, từ khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước mà hồi đầu, nương theo chỗ không phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm, không động niệm, đây tức là quy y Phật.
Pháp là đối với nhân sinh vũ trụ có nhận thức và hiểu biết chính xác. Trí tuệ chân thật hiện tiền thì tư tưởng, hiểu biết mới chính xác. Vọng tưởng phân biệt chấp trước không buông xuống, cách nghĩ, cách nhìn đều là sai lầm. Chúng ta là người sơ học, nhất định phải nương theo kinh điển, chỉnh đốn lại cái thấy nghĩ sai lầm của mình. Những lời nói trong kinh tức là chính tri chính kiến của chư Phật Bồ Tát quyết định là chính xác. Y theo kinh điển tu chính cách nghĩ, cách nhìn sai lầm của mình, tức là từ trong kinh Ðức Phật dạy chúng ta làm thế nào, học tập thế nào là đúng. Do đó quy y Phật là tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc. Quy y Pháp là dạy chúng ta làm thế nào từ trong công việc nhỏ nhặt hằng ngày mà tu học, tuân thủ lời dạy chính quy của Phật. Kinh điển của Phật rất nhiều, chúng ta có cần phải mỗi bộ kinh đều học tập không? Không cần. Kinh Phật là ghi chép những lời Phật dạy cho đại chúng khi còn tại thế. Mỗi chúng sinh có những khó khăn và mê hoặc của mình, họ hướng về Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thưa hỏi, Phật dạy cho họ phương pháp giải trừ mê hoặc điên đảo, lìa khổ được vui, về sau ghi chép lại thành một bộ kinh. Như vậy kinh là do Phật chỉ dạy một lần để giải quyết vấn đề, để được lợi ích cho người nghe. Do đó đủ biết, một bộ kinh là đầy đủ rồi, điều này quả thật chính xác.Hiện tại chúng ta không gặp được Phật, Phật để lại rất nhiều kinh điển, phải nương theo một bộ kinh mà tu mới tốt, điều này rất hiện thực, cũng là vấn đề rất khó khăn. Phật như là thầy thuốc, chúng ta là bệnh nhân (phiền não, khổ). Thầy thuốc vì chúng ta chẩn đoán cho thuốc, quả thực uống thuốc bệnh dứt, giải quyết vấn đề. Hiện nay thầy thuốc không còn, lưu lại một lô toa thuốc (kinh điển ví như toa thuốc). Chúng ta là người bệnh, những toa thuốc này phải dùng đúng, bệnh sẽ khỏi. Nếu dùng không đúng bệnh thì sẽ rắc rối lớn. Phật pháp xác thực như thế, phương pháp tu hành, lý luận kinh điển nếu cùng với căn cơ tương ưng, thì một đời quyết định thành tựu. Nếu không tương ưng cũng như uống lầm thuốc, chẳng những một đời cứu không được, về sau lại càng phiền phức hơn nữa. Các vị đồng tu nhất định phải cảm nhận sâu sắc vấn đề này. Làm sao biết được? Rất nhiều bạn đồng tu học Phật, trước khi chưa học Phật còn tốt, sau khi học Phật phiền não càng nhiều, càng học, phiền phức càng nhiều, cá nhân, gia đình phiền phức cả khối kéo đến, đây là thuốc không đúng bệnh, uống lầm thuốc.
Thật tình mà nói, chọn lựa pháp môn là một việc lớn, nhưng chúng ta không có khả năng, cũng không đủ trí tuệ. Như mình bị bệnh, thầy thuốc để lại một lô toa thuốc trong đó, nhưng không có người hướng dẫn thì việc này thật rắc rối. Muốn gặp may không phải dễ, giống như mua vé số muốn trúng số đặc biệt không phải dễ, không có được vận may đó đâu. Cần phải nhờ vào thiện tri thức chân chính có tu có học, trợ giúp chúng ta chọn lựa pháp môn. Tuy nhiên, đời nay người chân chính có học vấn có đạo đức không nhiều, một đời chưa chắc gặp được, gặp được rồi chưa chắc đã nhận thức được họ. Người càng có học vấn càng có đạo đức thì càng khiêm hạ, nếu hỏi thì họ sẽ đáp là: “Tôi không hiểu, tôi không có trí tuệ, không có năng lực, không có tu trì”, nếu họ nói rằng “Tôi thực hành, tôi có trí tuệ, môn nào cũng đều thực hành” đó không phải là chân thật. Hiện nay chúng ta không đủ năng lực để phân biệt chân giả, duy nhất có thể thực hành là, 3000 năm trước Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đã vì người thời đó chỉ thị một con đường sáng, theo như Kinh Ðại Tập đã nói: “Thời kỳ chính pháp, giới luật thành tựu. Thời kỳ tượng pháp, thiền định thành tựu. Thời kỳ mạt pháp, Tịnh độ thành tựu”. Hiện nay chúng ta sinh vào thời kỳ mạt pháp. Vận pháp của Phật gồm có: Chính pháp 1000 năm, tượng pháp 1000 năm, mạt pháp một vạn năm. Chúng ta sinh sau Ðức Phật Thích Ca diệt độ 2000 năm rồi, tức là thời kỳ mạt pháp, Phật nói “Thời kỳ mạt pháp, Tịnh độ thành tựu”, chúng ta quyết định phải chọn pháp tu Tịnh độ, chân thật niệm Phật, quyết định thành công. Ðó là tuân thủ theo chỉ thị của Phật. Cũng có người tu thiền thành tựu, có người tu mật thành tựu, những vị căn cơ đặc biệt rất ít, không phải ai cũng được. Chúng ta suy nghĩ thật kỹ xem mình có phải là căn tính đặc biệt không? Người căn tính thượng thượng có thể thí nghiệm học thiền, học mật hoặc học các pháp môn khác, nếu biết căn tính của mình bình thường thì hãy chân thật tuân thủ chỉ thị của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, là rất có hy vọng.
Chân thật niệm Phật, không ai không thành tựu, đặc biệt là đọc qua kinh luận Tịnh tông rồi tư duy nghiên cứu tường tận, thật sự có đạo lý. Ở trong tất cả pháp, quy y kinh điển vô lượng, chúng ta chọn “năm kinh một luận” của Tịnh tông. Sáu bộ này phân chia ra không nhiều đủ để chúng ta một đời thọ dụng, quyết không thể xem thường. Phân lượng của sáu bộ này tuy ít, nếu giảng tường tận thì giảng mười năm cũng chưa xong, cho nên y theo sáu bộ kinh này tu hành là đủ. Quy y pháp, chúng ta chọn lựa năm kinh một luận thuộc Tịnh tông là rất thực tế. Lúc Tịnh tông học hội thành lập, trong phần “Duyên khởi” có đề xuất năm mục lớn để thực hành, tức là trong sinh hoạt hằng ngày cần phải tuân thủ năm quy chế “Tam phước, lục hòa, tam học, lục độ, thập đại nguyện vương”. Ðều từ trong năm kinh một luận của Tịnh tông mà ra. Chúng ta trong sinh hoạt hằng ngày khởi tâm động niệm, thời thời cùng với lời nói của Phật đối chiếu, nếu tương ưng tức là chính xác, thì sẽ không làm sai, không nghĩ sai. Nếu cùng với lời Phật nói trái ngược, thì là nghĩ sai, làm sai. Chúng ta thật sự nắm lấy cương lĩnh, dùng nó để kiểm điểm, tu chính hành vi sinh hoạt của mình.