Ở cái tuổi gần đất xa trời, nhưng hàng ngày ông bà vẫn đi xin các thai nhi bị bỏ ở bệnh viện mang về mai táng. Biết được tấm lòng thơm thảo ấy, người dân địa phương đã hiến gần một hecta đất để ông bà thành lập nghĩa địa thai nhi. Sau gần bốn năm làm việc nghĩa, họ đã đưa hơn 800 cháu về đây chôn cất. Và cũng từ đây, nhiều đôi trai gái tưởng chừng đổ vỡ đã tái hợp…
HƠN 800 NGÔI MỘ VÀ NHỮNG NỖI ĐAU
Giữa cái nắng chói chang của Tây Nguyên, từ trụ sở UBND xã Đức Minh (huyện Đắk Mil, Đắk Nông), len lỏi qua nhiều con đường ngoằn nghèo, bụi đất chúng tôi cũng đến được nhà ông bà Hà Văn Bài (SN 1937) và Hoàng Thị Lan (SN 1942). Trước mắt chúng tôi là cả một khu nghĩa trang thai nhi rộng chừng 1 hecta nằm yên ắng trên một ngọn đồi được bao bọc bởi những hàng cây xanh mát. Trên những ngôi mộ ngay ngắn, bé nhỏ đều được cắm một bông hoa xinh xắn. Người đàn ông dáng người nhỏ thó có khuôn mặt hiền hậu dẫn chúng tôi vào căn nhà cấp bốn chỉ rộng chừng 20m2 vừa mới được xây xong, ngoài chiếc bàn thờ đặt trang nghiêm giữa nhà, nơi đây còn là không gian dành cho việc tẩm liệm thai nhi. Cạnh góc nhà là những chiếc tiểu sành làm bằng kính được ông Bài cắt tỉa, lắp ghép một cách cẩn thận. Ông nói cách đây hơn ba năm, khi nghĩa địa thai nhi chưa hình thành, vợ chồng ông phải mang các cháu về nhà ở dưới thị trấn để tẩm liệm rồi mang ra nghĩa địa người lớn để chôn nhờ. Biết việc làm của ông bà, người dân nơi đây đã hiến hơn 1 hecta đất để làm nơi chôn cất cho các cháu.

Hàng ngày, bà Lan miệt mài chăm chút từng ngôi mộ
Bà Hoàng Thị Lan kể lại: Đầu năm 2006, trong một lần đi khám bệnh tại TP. Hồ Chí Minh, bà chứng kiến nhiều học sinh, sinh viên đến bệnh viện xin bỏ thai. Lân la dò hỏi, một số em thú nhận với bà là do trẻ người non dạ, thiếu hiểu biết nên trót dại. Khi đó, trong đầu bà chợt lóe lên việc an táng những thai nhi vô tội. Nghĩ là làm, bà về bàn với gia đình và được chồng con hưởng ứng. Cả 8 người con và hai vợ chồng cùng bắt tay vào làm việc nghĩa. Tiếng lành đồn xa, chẳng bao lâu sau, nhiều giáo dân trong xã biết và đến nay, đã có khoảng 15 người thiện nguyện giúp đỡ công việc cùng chôn cất những hài nhi đặc biệt này. Mỗi thai nhi đưa về đây mang một số phận khác nhau. Có những bào thai đã thành hình nhưng vẫn bị phá bỏ, thậm chí vứt vào thùng rác, bụi cây. “Nhìn những thai nhi này, dù không biết con của ai nhưng tôi vẫn luôn coi chúng như con cháu của mình vậy” - ông Bài bộc bạch.
Những câu chuyện dài về những thai nhi bất hạnh, bị bỏ rơi là nỗi buồn luôn ám ảnh khôn nguôi canh cánh trong lòng của ông Bài - bà Lan. Ông nhớ lại: Vào một ngày giữa năm 2009 trời mưa tầm tã, ông nhận được một cuộc điện thoại báo có một thai nhi bị vứt vào hố rác tại bệnh viện từ đêm qua. Nghe tin, ông tức tốc đến bệnh viện, bới tìm suốt một buổi trong vũng nước ngập và rác hôi thối nhưng không thấy. Đi về được nửa đường, ông quyết định quay trở lại. Thêm 2 giờ vật lộn với rác và nước, cuối cùng ông cũng tìm được thai nhi đem về an táng.
Chỉ vào ngôi mộ vừa mới được chôn cất xong, bà Lan bảo: Đây là thai nhi thứ 820 được chôn cất tại đây. Sống hơn nửa thế kỷ, tôi chỉ có một ước nguyện là được dồn hết tâm sức cứu rỗi, sưởi ấm cho những thai nhi bé bỏng cô đơn, bất hạnh này đến cuối đời.

Ông Bài làm những chiếc tiểu sành để chôn cất thai nhi
NƠI HÀN GẮN NHỮNG MỐI TÌNH ĐỔ VỠ
Những ai đã đến nghĩa trang của ông bà khi ra về hẳn đều mang trong mình nhiều cảm xúc. Số phận những đứa trẻ không có cơ hội làm người ấy giờ đây được trái tim nhân hậu của ông bà và nhiều người nhân đức bao bọc, chở che. Và cũng chính giữa nghĩa trang thai nhi này đã hàn gắn lại nhiều tình cảm tưởng chừng đổ vỡ, những đôi bạn trẻ đã về sống với nhau nên chồng nên vợ.
Ông Bài kể, đầu năm 2010, cứ mỗi khi chiều xuống, lại có một cô gái xuất hiện ở nghĩa trang thai nhi; cùng lúc ấy có một thanh niên cũng thường đến đây. Sau nhiều lần gặp nhau, từ lạnh nhạt họ đã nở những nụ cười đầu tiên và cuối cùng họ cưới nhau. Hỏi ra ông được biết đôi bạn trẻ vốn học cùng trường, cùng lớp và yêu nhau. Xuất phát từ nguyên nhân gia đình, đôi bạn không thể đến được với nhau nên cái thai trong bụng cô gái bị phá bỏ. Biết con mình được chôn nơi đây, họ đã tìm đến ăn năn, sám hối. Tấm lòng của họ cuối cùng cũng được cha mẹ hai bên cảm thông.
Câu chuyện thứ hai xảy ra vào năm 2008, khi bà Lan đi thăm nuôi người nghèo tại bệnh viện gặp một cô gái đi phá thai. Tình cảnh cô gái thật tội nghiệp: Cô gái mắc bệnh quáng gà, khờ khạo và không có khả năng nuôi con. Bà Lan đã can ngăn, khuyên bảo và đưa cô gái xuống TP. Hồ Chí Minh nuôi đến ngày sinh nở rồi lại đưa cô trở về Đắk Mil. Một ngày, người cha của đứa bé biết tin đã quay lại xin cưới cô gái.
Bà Lan trăn trở: “Mỗi người có một hoàn cảnh nhưng đau lòng nhất là những người có ăn, có học nhưng vì công việc, lễ giáo gia đình, dù họ không muốn nhưng buộc phải bỏ đi “núm ruột” của mình. Ở đây có tới 820 thai nhi nhưng chỉ có khoảng 20 người đi tìm lại con mình, họ khóc lóc, hối hận vì việc đã làm; còn đa số một đi không trở lại. Tôi hy vọng lớp trẻ hãy sống chín chắn hơn...”.
Lúc chúng tôi rời nghĩa trang, ở phía xa có một người phụ nữ trẻ tuổi đang ôm một ngôi mộ nhỏ khóc dấm dứt. Bà Lan cho biết, thỉnh thoảng vẫn có những người mẹ đến đây “sám hối” như thế. Không phải ai nạo phá thai cũng là người vô đạo, mà do những hoàn cảnh khác nhau, người ta phải cắn răng làm việc như vậy. Chúng tôi chợt nghĩ, hóa ra khu nghĩa trang của ông bà và những người hảo tâm xây dựng đâu phải chỉ dành cho những hài nhi vô tội không có cơ may được sống, nghĩa trang còn là nơi để người sống sám hối, ăn năn và hành động tích cực hơn.