Thầy Huyền Diệu (Tiến sĩ Lâm Trung Quốc): Từ bi phải có trí tuệ

Tranh: Hoàng Tường
Ngoài việc xây cất ngôi chùa Việt Nam Phật Quốc Tự ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya, Ấn Độ), thầy Huyền Diệu còn được biết đến như là người nước ngoài đầu tiên được Nepal chấp thuận cấp cho hai mẫu đất để xây Việt Nam Phật Quốc Tự - ngôi chùa quốc tế đầu tiên ở vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) - nơi Đức Phật ra đời.
Hưởng ứng lời kêu gọi của thầy Huyền Diệu, hơn 20 quốc gia đã lần lượt đến xây dựng chùa của nước mình ở vùng đất này, hình thành một nơi mà ông gọi là “Liên Hiệp Quốc Phật giáo”. Nhờ vậy mà thánh địa hoang phế điêu tàn này đã hồi sinh.
Sau khi tốt nghiệp Đại học Sorbonne (Pháp), thầy Huyền Diệu đi dạy học ở nhiều nơi và làm Phật sự.
Thầy cũng là người đưa ra giải pháp hòa bình, chấm dứt cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài gần mười năm ở Nepal đã làm 14 ngàn người chết.
Nhân dịp về Việt Nam giới thiệu cuốn sách Lòng tri ân: Sức mạnh và mầu nhiệm vừa xuất bản, thầy Huyền Diệu đã dành cho Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần một cuộc trò chuyện.
* Dù bận rộn đi dạy học ở nhiều nơi, những năm gần đây thầy rất siêng về nước. Chăëc hăín thầy có nhiều việc phải làm ở đây?
- Tôi về không nhiều, chỉ vài lần thôi. Tôi về để thỉnh tượng Phật đưa sang bên kia thờ. Sẵn có một vài trường đại học, học viện Phật giáo và đạo tràng mời đến nói chuyện, tôi vui vẻ nhận lời.
* Ấn Độ vốn được xem là cái nôi của Phật giáo nên chắc không thiếu tượng Phật, tại sao thầy phải nhọc công như vậy?
- Tôi cất chùa Việt Nam nên thỉnh tượng Phật ở Việt Nam. Đạo Phật có một điểm rất hay là du nhập đến đâu thì hòa hợp vào văn hóa của địa phương đó. Nếu nhìn kỹ sẽ thấy ông Phật ở Trung Quốc khác với ông Phật ở Nhật Bản, ở Thái Lan… Thêm nữa, việc thỉnh tượng Phật qua bên đó cũng là một cách đưa văn hóa Việt Nam đến với các Phật tử khắp nơi trên thế giới khi họ đến chiêm bái tại Việt Nam Phật Quốc Tự.
* Trong những buổi nói chuyện với các Phật tử, thầy luôn khuyến khích mọi người hành hương về các thánh địa Phật giáo. Nhớ không nhầm thì tại buổi nói chuyện ở chùa Vạn Đức (Quận Thủ Đức, TP.HCM), thầy còn hứa sẽ chịu toàn bộ chi phí ăn ở đối với những Phật tử phát nguyện tu tập tại chùa từ sáu tháng trở lên. Các Phật tử hưởng ứng lời kêu gọi của thầy như thế nào?
- Tôi thấy các Phật tử đều mong ước ít nhất một lần trong đời hành hương đến thánh địa, để cảm nhận được sự linh thiêng như những người đã từng đến đó. Lần tôi đưa đoàn hành hương đầu tiên đến chiêm bái các thánh địa Phật giáo là năm 1979. Họ là những người châu Âu, người Mỹ… theo tôi tu tập. Tính đến nay cũng gần 30 năm, tôi đã trực tiếp đưa hàng trăm đoàn khách hành hương. Những đoàn hành hương Việt Nam mới chỉ thăm viếng đất Phật kể từ năm 1988, khi công việc xây dựng ngôi chùa Việt Nam Phật Quốc Tự ở Bồ Đề Đạo Tràng còn dang dở.
* Ngoài ngôi chùa ở Bồ Đề Đạo Tràng, thầy còn được biết đến như là người nước ngoài đầu tiên xây dựng chùa ở Lâm Tỳ Ni (Nepal)…
- Lần đầu tiên tôi hành hương đến Lâm Tỳ Ni cách nay gần 40 năm, tôi bàng hoàng vì sự hoang phế điêu tàn tại đây. Theo tôi, tầm quan trọng của vùng đất thiêng này đối với Phật giáo cũng như thánh địa Mecca của Hồi giáo, Vatican của Thiên Chúa giáo, Varanasi (Benares) của Ấn Độ giáo hay Jerusalem của Do Thái giáo. Tôi đã thầm khấn nguyện rằng nếu quả thật Lâm Tỳ Ni là chỗ Đức Phật giáng trần thì xin cho tôi được nhìn thấy thánh địa này phát triển trở lại trước khi nhắm mắt từ giã cõi đời.
Kể từ đó, tôi tận dụng mọi cơ hội để nói về thực trạng xuống cấp của Lâm Tỳ Ni, cho dù đó là lúc hướng dẫn các môn sinh học hỏi giáo lý nhà Phật, khi đứng lớp môn Lịch sử Á châu và Bang giao quốc tế ở trường đại học, rồi những lần tham dự các hội thảo quốc tế hay những dịp tiếp xúc các nhà lãnh đạo có ảnh hưởng về văn hóa - xã hội…
Chia sẻ với tôi, một số anh em là học trò của tôi đang làm việc tại các tổ chức quốc tế đã âm thầm vận động liên tục mười mấy năm trời cho ý nguyện làm sống lại thánh địa Lâm Tỳ Ni. Nỗ lực không mệt mỏi của các anh em rồi cũng có kết quả. Một buổi sáng năm 1993, công việc xây dựng Việt Nam Phật Quốc Tự ở Bồ Đề Đạo Tràng còn dang dở, thì những anh em vừa kể đột nhiên xuất hiện, thông báo Quốc vương Birendra và Chính phủ Nepal đã chấp thuận cấp đất cho tôi để xây ngôi chùa quốc tế đầu tiên ở Lâm Tỳ Ni và thúc giục tôi thu xếp hành lý để lên đường sang Nepal nhận đất. Tin đến bất ngờ khiến tôi vô cùng bối rối. Tôi chỉ kịp quơ đại một bộ quần áo, vài thứ linh tinh… rồi vội vã lên đường sang Nepal nhận đất.
* Thầy đã dựng lều, phát nguyện ở lại Lâm Tỳ Ni ngay sau khi làm lễ động thổ chùa. Thầy đã xoay xở như thế nào khi mà chùa ở Bồ Đề Đạo Tràng chưa xây xong?

- Nhiều người cũng can ngăn tôi không nên lưu lại. Một phần là vì nơi tôi dựng lều hoang vu, nhiều thú dữ như rắn, chó sói…, phần khác là do đi vội nên tôi chỉ kịp mang theo người có 60 USD. Nhưng đó chỉ là những khó khăn bước đầu. Phần lớn cư dân ở Lâm Tỳ Ni là người Hồi giáo và Ấn Độ giáo, vốn là quốc giáo của Nepal. Điều tôi lo ngại nhất là những phần tử cực đoan trong cộng đồng này sẽ gây phiền nhiễu cho đến chừng nào tôi chịu đựng không nổi và phải bỏ đi.
Hàng ngày, tôi tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tọa thiền, mong tìm ra một giải pháp tối ưu để có thể bảo vệ và phát triển Lâm Tỳ Ni. Ý tưởng biến Lâm Tỳ Ni thành một Liên Hiệp Quốc Phật giáo đã nảy ra trong đầu tôi. Tức là làm sao thuyết phục mỗi nước tự đứng ra xây một ngôi chùa ở Lâm Tỳ Ni. Ngoài ý nghĩa bảo vệ thánh địa, việc ngôi chùa của một nước tại Lâm Tỳ Ni sẽ khiến đất nước đó dần dà gắn bó với mảnh đất này.
Nghĩ là làm, tôi quyết định thành lập một “Ủy ban sứ giả quốc tế” quy tụ một số anh em có tâm nguyện mong muốn Lâm Tỳ Ni phát triển đang làm việc trong các tổ chức quốc tế, phụ trách vận động các nước. Về phần mình, tôi cũng tận dụng triệt để mọi mối quan hệ để thuyết phục chính phủ một số nước và các tổ chức Phật giáo trên thế giới tham gia vào chương trình này.
* Xin thầy cho biết hiện đã có bao nhiêu nước hưởng ứng lời kêu gọi của thầy?
- Liên Hiệp Quốc Phật giáo Lâm Tỳ Ni hiện có 25 thành viên, và chắc chắn đây chưa phải là con số cuối cùng. Việc xây dựng chùa của các nước đã khiến thánh địa hồi sinh. Từ một vùng đất lạc hậu, hiện nay Lâm Tỳ Ni đã có đường dây điện thoại trong nước và quốc tế, phủ sóng điện thoại di động, kết nối Internet. Chương trình xây chùa của các nước còn tạo ra hàng ngàn việc làm cho cả lao động nước ngoài và địa phương, kèm theo đó là sự phát triển của các dịch vụ đi kèm. Sự phát triển vượt bậc của Lâm Tỳ Ni là một điều mầu nhiệm, ngay cả Quốc vương Birendra và các trào Thủ tướng của Nepal cũng bất ngờ.
* Một năm sau khi thầy phát nguyện lưu lại Lâm Tỳ Ni, việc chim hồng hạc - loài linh điểu có tên trong Sách Đỏ - đã bay về cũng có thể được xem như một điều mầu nhiệm. Công việc bảo vệ loài chim đang trên đà tuyệt chủng này đã ngốn của thầy không ít thời gian và tâm sức?
- Một môn sinh từng nói đùa rằng kiếp trước tôi mắc nợ chim hồng hạc nên kiếp này tôi phải lao tâm khổ tứ để bảo vệ chim. Đến mùa sinh nở, chim mái chỉ đẻ tối đa được hai trứng. Khi chim mái ấp, chim trống đứng canh chừng quanh tổ, sẵn sàng tấn công bất kỳ con thú nào mon men lại gần. Vậy nên, mỗi lần biết chim mái đẻ, tôi lập tức cho dựng lều cách tổ chim chừng bảy, tám thước, cắt cử người canh giữ ngày đêm. Thế nhưng, mối đe dọa lớn nhất đối với loài linh điểu này chính là con người.
Không biết xuất phát từ đâu mà người ta đồn đãi rằng nếu ai ăn được trứng chim hạc sẽ sống đến 500 tuổi, còn ăn được thịt chim hạc thì thọ được 700 năm. Chúng tôi chỉ có mười mấy người nhưng phải lo đối phó với hàng trăm người ngày đêm rình rập. Chỉ một chút sơ sẩy của người canh gác là trứng chim bị đánh cắp. Tôi vận động chính quyền địa phương, nhờ báo chí tiếp tay, để đưa loài chim này vào diện được bảo vệ đặc biệt. Những hình phạt nặng cũng đã được chính quyền đưa ra đối với những người săn bắn chim nhưng kết quả là trứng chim vẫn tiếp tục mất trộm.
Tin tưởng vào sự thiêng liêng của thánh địa nơi Đức Phật giáng trần, sau khi thành kính khấn nguyện, khẩn cầu các đấng linh thiêng gia hộ cho tôi có một quyền năng đặc biệt để bảo vệ hồng hạc, tôi thảo một tờ thông báo bằng tiếng Nepal, khuyến cáo rằng những người ăn trứng chim hạc sẽ bị ghẻ lở khắp người, còn ai giết hại chúng thì ba đời bị nạn. Hai tuần sau khi bản thông báo được phân phát, một người thợ bên chùa Nhật Bản và một công nhân tại chùa Việt Nam bị ghẻ lở đầy tay. Hoảng sợ, họ tìm đến thầy trụ trì chùa Nhật Bản và tôi để thú nhận rằng đã ăn trộm trứng chim.
Việc này lan truyền ra bên ngoài, khiến tình trạng trộm trứng chim đã giảm đi đáng kể nhưng sau đó lại bùng phát phong trào trẻ em rủ nhau đi bắn chim. Hợp tác với cảnh sát địa phương ngăn chặn không hiệu quả, tôi và các cộng sự một mặt nhẫn nại thuyết phục người dân địa phương về tầm quan trọng của chim hạc. Mặt khác, chúng tôi kiên trì thực hiện các biện pháp giáo dục cộng đồng như tổ chức chiếu phim, triển lãm ảnh…, đặc biệt là tổ chức cuộc thi vẽ về chim chóc để hướng trẻ em đến tình yêu thiên nhiên, tôn trọng sự sống của những loài muông thú.