Ngày nay, người ta thấy sự quan tâm đặc biệt của phương Tây dành cho Phật giáo. Các nhà Khoa học phương Tây nhận thấy ở những dạng Tâm linh, mang tính thực dụng của chiêm nghiệm, mà không mang những tín điều nặng nề (như ở các Tôn giáo khác), có thể đưa đến một lối thoát duy nhất cho những khó khăn mà Khoa học đang phải đối diện.

1- Tích hợp giữa Tư duy khoa học và Chiêm nghiệm Phật học: Con đường tiếp cận huyền bí Tâm linh
Thế giới các hiện tượng huyền bí thuộc phạm trù Tâm linh, vẫn tiếp tục kích thích nhiều công trình nghiên cứu, xuất hiện nhiều trong vòng hai mươi năm trở lại đây. Sự tập hợp trí tuệ ấy, hình thành cái gọi là “Khoa học huyền bí”, mà sức lan tỏa của nó đủ trở thành một bộ phận không nhỏ trong toàn bộ Tri thức của nhân loại. Nhưng tại sao sự hiện diện, không thể chối cãi ấy, của hiện tượng Tâm linh, lại bị gán cho hai chữ “Huyền bí”? Đó là bởi vì Khoa học hiện thời không lý giải được. Và chắc chắn không bao giờ lý giải được. Vì một lẽ đơn giản là Khoa học không mang trong lòng nó những mầm mống của Tâm linh! Đối với Khoa hoc, Thế giới thuần túy Vật chất và phải định lượng được.
Một cách tự nhiên, giữa Khoa học và Tâm linh tồn tại một ranh giới: Khoa học vẫn phát triển mà không cần đến Tâm linh, và bằng chiêm nghiệm, Tâm linh cũng chẳng cần đến Khoa học.
Nhưng Khoa học càng tiến lên, chính các nhà khoa học cũng trở nên bối rối, lạ lùng – thậm chí hoang mang – trước sự đối lập giữa “Hiện thực khách quan” với những phát hiện Khoa học của chính mình: Những phát hiện đó, đi ngược lại sự gắn bó chặt chẽ của nhận thức truyền thống, đã ăn rất sâu vào tiềm thức đối với hiện thực nội tại. Vì quá trăn trở với những đối lập ấy, đến nỗi một nhà Vật lý lừng danh như Schodinger, cũng phải than thở với đồng nghiệp Niels Bohr rằng: “Tôi rất lấy làm tiếc là mình đã có lúc dây dưa với lý thuyết Lượng tử”!
Để làm yên lòng thế giới, các nhà Khoa học đã lao vào những cuộc luận giải để dung hòa các phát minh của Vật lý với nhãn quan, nhằm tránh phải xem xét lại sự cảm nhận thông thường của chúng ta về các sự vật. Những kết quả, những nỗ lực ấy của họ, càng vấp phải những khó khăn, khi họ buộc phải đối chiếu chúng với các hiện tượng do chính mình phát hiện ra.
Ngày nay, người ta thấy sự quan tâm đặc biệt của phương Tây dành cho Phật giáo. Các nhà Khoa học phương Tây nhận thấy ở những dạng Tâm linh, mang tính thực dụng của chiêm nghiệm, mà không mang những tín điều nặng nề (như ở các Tôn giáo khác), có thể đưa đến một lối thoát duy nhất cho những khó khăn mà Khoa học đang phải đối diện. Albert Einstein viết: “Nếu có một Tôn giáo nào thích nghi được với những nhu cầu của Khoa học tiên tiến, thì đó là Phật giáo”. Điều này đã kích thích sự tò mò của các phương tiện thông tin đại chúng và kích thích nhiều công trình nghiên cứu, nhằm đánh giá nguyên nhân nào khiến Khoa học hướng tới tiếp cận Tâm linh, và xu hướng phát triển của nó trong tương lai.
Đặc biệt, trong vòng ba mươi năm trở lại đây, bắt đầu mở ra những cuộc đối thoại giữa Khoa học và Phật giáo. Tại đó, nhiều nhà Khoa học lỗi lạc thuộc các lĩnh vực : Thần kinh học, Sinh vật học, Tâm lý học, Vật lý học, Toán học, Triết học… đã được tổ chức thường xuyên, với những đề tài trải rộng thuộc phạm trù Tâm linh.
Heisenberg đã viết: “Tôi cho rằng khát vọng vượt qua những đối lập, bao gồm sự tổng hợp cả hiểu biết duy lý và trải nghiệm Tâm linh về tính thống nhất, là một nét đặc trưng quan trọng của thời đại chúng ta”.
Các nhà Vật lý Lượng tử cũng đã nhấn mạnh rằng, sự phân chia giữa ta và thế giới là giả tạo, Schrodinger đã từng viết: “Chủ thể và Khách thể chỉ là một. Người ta không thể nói rằng, hàng rào giữa chúng đã bị phá vỡ sau các thực nghiệm gần đây của Khoa học Vật lý, vì hàng rào này không hề tồn tại”.
Quan điểm nền tảng của Phật giáo về thế giới là “Sự phụ thuộc lẫn nhau của các hiện tượng”, tức là, không có cái gì tồn tại tự thân và là nguyên nhân của chính mình: Một vật chỉ có thể được xác định trong mối quan hệ với các vật khác và phải được xem xét trong một Tổng thể. Sự phụ thuộc lẫn nhau là một thiết yếu để các hiện tượng có thể thể hiện được. Không có nó, Thế giới không thể vận hành. Từ quan niệm về Sự phụ thuộc lẫn nhau, phát sinh khái niệm về Tính trống rỗng (Tính không), và đi tới khái niệm Vô thường. Sự trống rỗng ở đây không phải là hư vô, mà chỉ là không có sự tồn tại riêng (Tự thân) mà thôi. Bởi vì tất cả đều phụ thuộc lẫn nhau, nên không có gì có thể được xác định, và không có gì là tồn tại bởi chính mình cả.
Về ý nghĩa Triết học, Khoa học hiện đại cũng nghiệm thấy rằng, có một sự hội tụ nhất định giữa Khoa học và Phật giáo với nhãn quan về hiện thực. Bởi vì Vật lý hiện đại (Cơ học lượng tử và Thuyết tương đối) cũng nêu lên những ý tưởng về sự Phụ thuộc lẫn nhau của các hiện tượng trong một tính tổng thể vượt lên trên thời gian. Tính Tổng thể của hiện thực đã được nhiều thí nghiệm Vật lý khẳng định : Trong Thế giới vi mô có thí nghiệm EPR nổi tiếng, mà chúng ta thường nghe nhắc đến. Những thí nghiệm loại này, cho chúng ta biết rằng, hiện thực là không thể chia tách, rằng hai hạt ánh sáng tương tác với nhau liên tục tạo thành một bộ phận của một, và chỉ một hiện thực duy nhất, mà không phụ thuộc gì vào khoảng cách giữa chúng.
Còn trong Thế giới vĩ mô, Tính tổng thể được thể hiện qua thí nghiệm con lắc Foucault. Ở đây, mặt phẳng dao động của con lắc phù hợp, không phải chỉ với môi trường xung quanh, mà với toàn bộ Vũ trụ. Nói cách khác, cái được chuẩn bị xảy ra ở Trái đất đã được quyết định trong khoảng bao la vô tận của Vũ trụ. Nghĩa là phụ thuộc vào tổng thể cấu trúc của Vũ trụ.
Tại sao con lắc Foucault có hành vi như vậy ? Cho tới nay Khoa học Vật lý chưa tìm được câu trả lời. Nhưng nhà Vật lý và Triết học người Áo Ernest Mach đã đưa ra một nguyên lý, gọi là quán tính Mach, phát biểu rằng: “Khối lượng của một vật là kết quả tác động của toàn Vũ trụ lên vật này”. Tác động bí ẩn đó, cho tới nay vẫn chưa có ai tiếp tục chứng tỏ được một cách chi tiết.
Các nhà Vật lý khẳng định, với thí nghiệm EPR và con lắc Foucault, đã buộc chúng ta phải chấp nhận rằng, trong Thế giới vĩ mô, có tồn tại một mối tương tác có bản chất hoàn toàn khác với những tương tác mà Vật lý hiện nay đã mô tả: Tương tác này không làm xuất hiện lực và cũng không có sự trao đổi năng lượng, nhưng nó gắn kết toàn bộ Vũ trụ với nhau, mỗi bộ phận đều mang trong nó tính tổng thể, và mỗi bộ phận đều phụ thuộc vào bộ phận còn lại. Chính các bộ phận này đã tạo nên hiện thực quanh ta, và quyết định những điều kiện tồn tại của chúng ta, của các hạt và các thiên hà. Mặt khác, theo thuyết Lượng tử : Bản thân hành vi quan sát, (cũng tức là Ý thức của người quan sát), can dự vào việc xác định sự tồn tại của hiện tượng được quan sát : Người quan sát và hiện tượng được quan sát hợp thành một hệ thống duy nhất – một tổng thể.
Hành vi quan sát và sự nhận thức (do hành vi quan sát ấy đem lại), không những làm đổi hướng hiện thực mà còn quyết định nó, nghĩa là Cơ học lượng tử xác nhận tính hiển nhiên của mối liên hệ giữa Tinh thần và Vật chất. Dưới ánh sáng của lý thuyết lượng tử, nhiều bí ẩn được giải bằng một cách lý giải mới, đi tới một tính nhất quán nào đó mà vẫn không bỏ mất sự thật ban đầu của chúng. Đặc biệt, Vật lý hiện đại cho thấy, càng đi sâu, người ta càng đến gần một nền móng phổ biến gắn liền Vật chất, Sự sống và Ý thức.
Về phương pháp luận nhận thức, được coi là nền tảng của Phật giáo, về Tính tổng thể, về Sự phụ thuộc lẫn nhau, về Tính trống rỗng, của Thế giới các hiện tượng, đã cho phép giải thích mọi bí ẩn của Thế giới Vật chất và thế giới Tâm linh. Đồng thời có khả năng giải quyết sự đối lập giữa hiện thực và các phát hiện của Khoa học hiện đai, sự đối lập đã làm dấy lên lòng hoài nghi và sự lo lắng về “Một cuộc khủng hoảng Vật lý học trong thời đại hiện nay”.
Như vậy,có thể nói rằng, Phật học là một học thuyết đã bao trùm cả Vật lý học và Tâm linh học, tức là một học thuyết nghiên cứu cả Thế giới khách quan và Thế giới tâm linh – một phạm trù đối xứng với thể xác.
Sự đối thoại thường xuyên giữa Khoa học và Phật học, không phải là phương tiện dung hòa, làm hài lòng cả hai quan điểm, dựa trên những xuất phát điểm khác nhau, mà chính là để tạo thành một dòng liên tục của tri thức, của sự hiểu biết về bản chất của các hiện tượng và của Ý thức: Tri thức phải giúp chúng ta khám phá ra bản chất của Thế giới xung quanh và bản chất của Tâm linh con người !
Khoa học không cần đến Tâm linh sẽ làm lụi tàn dần dần sự tồn tại của con người. Bởi vì tri thức không được nuôi dưỡng bằng lòng vị tha thì Khoa học và Chính trị sẽ trở thành con dao hai lưỡi: Khoa học công nghệ mang đến cho loài người những yếu tố tích cực vô cùng to lớn, nhưng nó cũng gây ra những hậu quả tàn phá không kém phần nghiêm trọng, kể cả tàn phá về nền tảng đạo đức. Khoa học đã chứng tỏ rằng, nó có thể tác động vào Thế giới, chứ không làm chủ được Thế giới. Chỉ có những Phẩm chất con người mới có thể định hướng được cách tác động vào Thế giới của chúng ta. Vậy mà, những phẩm chất này chỉ có thể nảy sinh từ một Khoa học về Tâm linh !
2- Phải chăng Ý thức chỉ là sự phản ảnh của các quá trình Vật lý? Nó là kết quả của sự phức tạp hóa cấu trúc Vật chất hay hoàn toàn khác biệt với Vật chất ?
Giải đáp những câu hỏi loại này một cách hợp lý, sẽ cung cấp cho chúng ta một tư duy mới, tiếp cận với bản chất “huyền bí” của Tâm linh con người, và làm phong phú thêm Tri thức của chúng ta.