Nguyễn Thế Đăng

Con người trong bất cứ thời đại nào đều có “mối quan tâm tối hậu” là đạt đến tâm linh, những chiều cao trong tâm thức của nó.
Khi nhìn lại văn học nghệ thuật – lĩnh vực nhạy cảm nhất, mang tính dự báo của xã hội con người – thì tại Âu Mỹ trong thế kỷ XX, chúng ta thấy hình ảnh của con người hiện đại là những con người cô đơn và buồn rầu. Những nhân vật trong tiểu thuyết của Franz Kafka (Hóa thân, Tòa lâu đài, Vụ án…); sau Đại chiến thứ 2 với Albert Camus (Kẻ xa lạ, Dịch hạch, Huyền thoại Sysiphe); André Malraux (Thân phận con người), cũng đã tiên đoán vào giữa thế kỷ XX rằng thế kỷ XXI là thế kỷ tâm linh; Hemingway (Giã từ vũ khí, Chuông nguyện hồn ai, Mặt trời vẫn mọc, Ông già và biển cả…)…; những vở kịch của Beckert, Ionesco…, tất cả đều nói đến thân phận con người: cô đơn, buồn rầu và lạc lõng. Phong trào tiểu thuyết mới của Pháp cũng nói đến một thế giới không có con người. Ngay cả nền văn học châu Mỹ La-tinh, với các tác giả như J.L. Borges (cũng đưa ra lập luận “tính hư ảo là điều kiện của nghệ thuật”); Marquez (Trăm năm cô đơn)… đưa yếu tố mộng và thần thoại vào tiểu thuyết, nhưng hình như cũng không kéo được con người ra khỏi sự cô đơn buồn bã của chính nó.
Trong tác phẩm Nghệ thuật tiểu thuyết, Milan Kundera nói về thời kết thúc của tiểu thuyết: “Như vậy, rất rõ ràng là tiểu thuyết có thể tàn lụi, cũng có thể tàn lụi như phương Tây thời hiện đại”.
Về hội họa, sau những hứng khởi của một số thiên tài như Matisse, Picasso, Paul Klee…, những người đã đưa hội họa đến chủ nghĩa trừu tượng, thì từ sau nửa thế kỷ XX hội họa không còn đà tiến và phát triển thành nhiều trường phái nên đã bước vào ngõ cụt như khuynh hướng ngẫu nhiên, pop art, op art… Thí dụ như chủ nghĩa siêu thực (surréalisme): một khi vượt khỏi (sur) cái thực (réalité) mà không bắt gặp được cái tâm linh thì người ta sẽ trở thành hoang tưởng và mê loạn. Khi không đi vào được chiều sâu của con người, người ta phát triển theo chiều ngang, tạo thêm những môn nghệ thuật mới, như xếp đặt (installation), trình diễn (performance)… nhưng cũng chẳng đi xa hơn được.
Mỹ tự hòa là Tân lục địa so với châu Âu là cựu lục địa, nên đã lao vào kỹ thuật và kinh tế, vào tham vọng làm cường quốc duy nhất của hành tinh, trong khi đó, con người cá nhân vẫn không thoát khỏi khủng hoảng. Người ta làm ra những phim đầy bạo lực, đầy dục tính, và tạo ra những nỗi sợ giả tạo: sợ khủng long, sợ những sinh vật ngoài hành tinh và đủ thứ kỳ dị khác để khỏa lấp sự cô đơn và khắc khoải. Nhà Triết học Đức Theodore Adorne kết luận: “Ở thời đại của sự vô nghĩa, một tác phẩm nghệ thuật có thể là hiện thân của sự vô nghĩa đó một cách vô lý nhất; bằng cách đó, nghệ thuật có thể giúp con người vượt qua sự phi lý của cuộc sống hiện đại”.
Năm 1935, ba năm trước khi chết, Husserl (ông tổ của Hiện tượng luận) đã có những cuộc nói chuyện – trong di chúc triết học của ông – về sự khủng hoảng của con người châu Âu. Cuộc khủng hoảng đó sâu sắc đến độ ông tự hỏi liệu châu Âu có còn sống sót sau ông hay không. Trong cuốn Văn minh và những sự không hài lòng của nó (1930), một trong những tác phẩm sau cùng của Freud (ông tổ Tâm phân học), ông nói rằng văn minh chẳng phải đang thế chỗ cho sự dã man bằng cách tiêu diệt nó, mà khi dồn nén cái dã man vào bên trong thì chính là đang chuẩn bị cho tính dã man thực hiện những đợt phun trào mới.
Con người đang cô đơn, khủng hoảng, và đang cố giấu tính dã man của mình đi, để rồi nó sẽ bùng phát trong những cuộc chiến tranh… đó là những gì mà triết học, văn học và nghệ thuật hiện đại cho chúng ta hiểu. Chẳng phải là ngẫu nhiên khi sau năm 2000, Nhà xuất bản Khoa học xã hội cho ra đời hai cuốn sách, phản ánh phần nào mối ưu tư của văn hóa thế giới: Trái đất, Tổ quốc chung; Tuyên ngôn cho thiên niên kỷ mới của E. Morin, Giám đốc nghiên cứu danh dự thuộc trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học (CNRS) của Pháp viết năm 1993,mà chỉ hai chương cuối Phúc âm về thảm họa tận thế và chương kết Trái đất, Tổ quốc chung đã nói lên phần nào nội dung cuốn sách. Cuốn thứ hai là Trở lại với con người do Viện Nghiên cứu con người xuất bản. Cuốn sách tập hợp những bài phát biểu của các học giả Nga, Mỹ, Trung Quốc về nghiên cứu nhân học với những bài như: Tương lai nào cho con người (2000) của S. J. Gould; Con người thế kỷ XXI: bản tính đang mất dần (2001) của Aleksandrovich; Trở lại với con người (Frolov I.T).
Cái cô đơn, buồn bã, trống rỗng bản thân, hiện tượng “con người hiện nay sống ở bên ngoài thân mình về mặt tâm lý và tâm linh” trong cuộc sống con người hiện đại là do nó không thoát khỏi chủ nghĩa cá nhân của nó. Ngay cả sự “phản tỉnh” của con người trong triết học hiện sinh vào giữa thế kỷ XX cũng chỉ là một tự sự soi mình trong gương (như Narcisse, nhân vật của thần thoại Hy Lạp tự yêu mình nên cứ soi gương để ngắm mình mãi) để thấy được tính hữu hạn của đời người nhưng không thoát ra được cái cá nhân hữu hạn đó, nên sự soi ngắm mình chỉ đưa lại những “buồn nôn”, “thừa thãi” (J. P. Sartre) và “phi lý”, “xa lạ”, “lưu đày” (Camus). Sự khủng hoảng của văn học nghệ thuật nói riêng và của con người hiện đại nói chung có nguyên nhân chính là con người không thể thoát khỏi cái ta hữu hạn và bất toàn của mình, và càng yêu cái ta, càng quy về cái ta (self-centered, quy ngã) bao nhiêu thì sự buồn chán và bế tắc càng thêm lớn. Cá nhân chủ nghĩa đưa đến hư vô chủ nghĩa.