Chú ngữ trong Tôn giáo và Ngọai cảm trị liệu
Pháp sư trị bệnh cho người và vật bằng cách đặt tay lên họ và phát ra năng lượng âm thanh có nhịp điệu như ca hát ,nhảy múa nhằm mục đích kích hoạt dẫn thức để trị bệnh .
Chuỗi âm thanh như :EOEOEOEOEOOE-OOHOOHOOHOOHOOHRAAGH ; Pháp sư nói bằng âm thanh không cần lời ,ngữ nghĩa vì sự rung động đã mang ý nghĩa của âm thanh rồi (ví như các nốt nhạc phát ra từ nhạc cụ).
Âm thanh là một công cụ có tính năng quan trọng trong việc trị bệnh , có nhiều loại âm thanh khác nhau , tuy nhiên chỉ có 3 tổ hợp và 3 trụ âm thanh cho cả những thứ từ nhỏ đến lớn nhất.
Loại âm thanh đầu tiên được tạo ra bằng cách thổi vào một con sò biển lớn , âm thanh liên tục của nó có thể tạo ra từ miệng của ta hay bằng ống sừng , kèn OEOEOEOEOEOE ; Âm thanh thứ nhì là âm thanh Âm - là một âm thanh vẩy vuốt : WOEW WOEW WOEW WOEW WOEW WOEW . Có một nhịp điệu tạo ảnh hưởng tức thời . Sau chót là âm thanh Dương : là những âm thanh rời như BRRRRRR BRRRRRRRRRR , con cóc dùng miệng để tạo ra âm thanh nầy , con cóc dùng âm thanh nầy để tạo ra sự khô ráo , ấm cúng và âm thanh nầy là âm thanh của lửa .
Ta có thể tạo sự liên lạc của 3 âm thanh nầy lại với nhau . trong tất cả những âm thanh mà ta nghe như : máy bay , chuột ,chim và người ; ta có thể biết âm thanh nào là âm thanh đầu tiên , âm thanh nào là âm thanh pha trộn . Những âm thanh cao là một thành phần của tất cả âm thanh , giống như âm thanh đầu tiên .Âm thanh cao được tạo ra bằng đốc họng , âm thanh thấp được tạo ra bằng bụng . Có nhiều cách khác nhau để tạo ra âm thanh bằng bụng , bao tử, ngực , mũi và trán . Nhạc Ả Rập , đa số ca bằng họng mũi và trán .
Mỗi âm thanh đều có sự liên hệ với ngũ hành . Âm thanh căn bản đầu tiên bao gồm ngũ hành : Lữa, gió , đất và nước cộng thêm linh hồn (spirit) để tạo ra sự sống ; sự lên xuống của âm thanh Âm thanh của nước , âm thanh của lữa liên hệ với chữ R ,nhấn mạnh đến đặc tính tan vỡ và rời rạc của nó . Những dụng cụ âm thanh khác nhau , sẽ tạo ra những âm thanh tinh linh ngũ hành khác nhau . Những nhạc cụ bằng gỗ liên quan với Thủy , nhạc cụ bằng đồng liên quan với Hỏa . Trong nghi thức của Pháp sư thường dùng con lắc ( Rattle) tượng trưng cho năng lực của lữa ; cái chuông tượng trưng cho năng lực của không khí và âm thanh của cái trống tượng trưng cho năng lực của đất . Cách thức sử dụng nhạc cụ của một người phân định ra loại tinh linh nào , hành nào (Element) sẽ được tạo ra . Thí dụ như đánh trống , loại tinh linh nào sẽ được tạo ra , tùy theo cái trống được đánh như thế nào . Pháp sư thổ dân da đỏ , có cái trống đánh được 3 loại âm thanh chính ,đương nhiên con người có thể dùng âm thanh của mình để tạo ra những âm thanh nầy . Có một sự hổ tương ảnh hưởng qua lại của âm thanh và tinh linh ngũ hành như ta nghe âm thanh của nước rơi xuống ,như mưa rơi , và ta liên lạc với hành thủy , như vậy pháp sư cầu mưa sẽ ca và vổ trống để phát âm thanh như mưa rơi . Nhịp điệu,tiết tấu (Rhythm) rất quan trọng với âm thanh ,nhịp điệu như thùng chứa đựng , âm thanh như vậy được chứa đựng ; do đó , ta không nên phát âm mà không có nhịp điệu , cũng như ta muốn nói mà không có âm thanh vậy , sự tồn tại của nhịp điệu cần có sự hiện diện của âm thanh . Những đặc tính của âm thanh ảnh hưởng đến con người gồm có 4 loại : Âm thanh của lữa có tính mạnh mẽ phá hoại ; âm thanh của gió có tính tiêu trầm , âm thanh của đất có tính vô tư ; âm thanh của nước có tính lãnh đạm , trầm định...
Hầu hết bệnh tật đều do ảnh hưởng của tinh thần , ta dùng âm thanh tương ứng của tứ đại có liên quan đến đặc tính tâm lý của bệnh nhân để trị liệu ; đặc tính tâm lý , trạng thái tâm lý được tạo ra cùng với âm thanh ; với một âm thanh tương ứng , ta có thể tạo ra một trạng thái tâm lý đặc thù cho một người . Trong trị liệu , ta phải dùng âm thanh để giải quyết vấn đề , để trị bệnh , ta cần phải điều chỉnh và dùng âm thanh sao cho đúng tần số với cơ thể , trạng thái tâm lý và siêu tâm lý của người đó . Vấn nạn và bệnh là một trạng thái tâm lý Ta liên lạc với năng lượng bị ứ đọng ở đó , sau đó ta dùng cùng một nhịp điệu rung động đó , mà áp dụng một âm thanh tương ứng . Đó là ta đã dùng đồng vị trị liệu (Homeopathy) .
Khi bệnh đã được nhận ra , ta bắt đầu dùng những nhạc cụ và một bộ chuông Tây Tạng (Whole series of Tibetan Singing Bowl) để bệnh nhân ngồi đối diện , khi đánh trống và tạo âm thanh – niệm chú – ta bắt đầu chú ý đến vị trí bệnh ; Dùng một loạt âm thanh có sự rung động đồng bộ với chứng bệnh , sẽ tạo một sự cộng hưởng với vị trí bệnh và từ đó sẽ tái lập lại thăng bằng cho bệnh nhân . Khi một bộ phận hay một cơ quan nào của cơ thể bị bệnh , thì hạt nhân bên trong của tế bào vẩn còn giữ được sự điều hòa và đặc tính căn bản khõe mạnh của nó , có trường hợp bệnh nhân bị ảnh hưởng của bệnh mà đi trật quỹ đạo , quay chậm hay quay sai chiều , thì ta dùng âm thanh mà giúp nó , tạo lập lại quân bình ; có khi ra lệnh bệnh nhân cùng phát âm – hoặc đọc chú nhằm để hổ trợ cho năng lực hạt nhân tái tạo lại quân bình và trở về đúng quỹ đạo của nó .
Thần Chú (Mantra) là một tập hợp âm thanh , không cần có ý nghĩa . khi đọc chú , trước tiên ta lập lại nhiều lần một chữ để ta cho nó có một ý nghĩa đặc biệt – tức là ta muốn việc gì , thì ta suy nghĩ về việc đó , và bơm nó vào chữ đang đọc chú , sau đó ta tiếp sức mạnh cho nó bằng một sự quán tưởng – tức là ta tạo một hình ảnh rõ ràng trong tâm ta có liên quan với câu chú mà ta đang đọc , hoặc bằng cách dùng một ký hiệu như hình ngũ giác (Pentagram) hay những phù hiệu thần bí của Bắc Âu (Rune) hay những cử động sắc bén hoặc dùng ấn quyết (Mudra) ; nếu không vừa ý , ta có thể dùng đến màu sắc , thông qua ý nghĩa , biểu tượng của màu sắc , tâm thức ta có thể nâng lên tới một cảnh giới ánh sáng có tần số rung động cao và cuối cùng đi đến ánh sáng trắng .
*MANTRA :
*PENTAGRAM :
*RUNE :
*MUDRA :
Khi ta đã có kinh nghiệm về âm thanh , ta sẽ không cần phát ra âm thanh nữa ,mà ta cũng có thể nghe âm thanh bên trong cùng với ý nghĩa ,hình ảnh ,màu sắc và ánh sáng . Âm thanh đi xuyên qua mọi vật ,nhưng ta không thể mới bắt đầu mà muốn đi liền tới đỉnh .
Sự liên hệ của chú ngữ (Mantra) và con số : Sinh mạng thọ của Do Thái (Jewish Kabalah) dùng số 49 ; Tây Tạng dùng số 64 ; Chú ngữ có số 7 , đó là tứ đại và tam cực , âm dương và trung hòa ; Ý nghĩa biểu tượng của mỗi số cho ta biết phương hướng mà ta phải làm .
Loại chuông hát (Singing bowl) của Tây Tạng và Mông Cổ , làm bằng 7 kim loại khác nhau : Vàng biểu hiệu mặt trời ; Thủy ngân biểu hiệu Thủy tinh ; Đồng biểu hiệu Kim tinh ; Sắt biểu hiệu Hỏa tinh , Nhôm biểu hiệu Mộc tinh ; Chì biểu hiệu Thổ tinh .