THIỀN, theo các nhà khảo cổ, là “tập trung vào một thứ gì đó để tạo ra cảm giác thanh tịnh”. THIỀN đưa đến kết quả “hân hoan, hạnh phúc”.
Nhưng theo tôi, muốn hiểu thế nào là THIỀN của Đạo Phật thì ta phải kiểm tra lại kết quả THIỀN mà Đức Thích Ca đã đạt được. Qua đó, ta có thể thấy được mục đích của NGỒI THIỀN như sau:
Sở dĩ Đức Thích Ca rời bỏ hoàng cung cũng vì trông thấy cảnh SINH, LÃO, BỊNH, TỬ đè nặng lên thân xác của con người. Do đó, Ngài muốn đi tìm một đường lối nào đó để THOÁT chúng, và THIỀN là phương tiện cuối cùng Ngài dùng, sau khi thất bại với những phương pháp của 6 vị Thầy trước đó. Do vậy, ta có thể kết luận: THIỀN là thời gian tập trung của Đức Thích Ca để tư duy tìm con đường GIẢI THOÁT. Điều này được chứng minh qua lời tuyên bố của Ngài ngay sau khi xả Thiền: “Ta lang thang trong vòng luân hồi qua bao nhiêu kiếp, tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà. Hỡi kẻ làm nhà, từ đây ta đã gặp được ngươi rồi. Ngươi không được làm nhà nữa. Bao nhiêu cột kèo của ngươi đã gãy vụn cả rồi. Rui mè của ngươi đã tan nát cả rồi. Trí ta đã đạt đến Vô thượng Niết Bàn. Ta đã hoàn toàn Giải Thoát”.
Do Không biết thế nào là Khổ. Không có mục đích khám phá cách thức để Thoát Khổ hay còn gọi là Con Đường Giải Thoát như Đức Thích Ca. Những người NGỒI THIỀN về sau này chỉ biết rằng Đức Thích Ca đã NGỒI bất động, tay chân xếp lại, mắt khép hờ... không biết rằng Ngài đã làm gì trong lúc NGỒI bất động đó. Vì vậy, họ chỉ bắt chước được phần TƯỚNG THIỀN. Do không hiểu được mục đích và lý do NGỒI THIỀN. Không biết Ngồi như thế nào mới gọi là THIỀN ĐỊNH? Không phân biệt thế nào là Chân Thiền? Thế nào là Thiền ngoại đạo? Kết quả của Thiền là gì? Thì dù cho có ngồi bao nhiêu lâu, bao nhiêu thời, bao nhiêu năm tháng cũng không thể nào Đắc Đạo như Đức Thích Ca được. Bởi một lý do rất dễ hiểu: Người Ngồi Thiền đó có TÌM ĐẠO đâu mà ĐẮC ĐẠO?
THIỀN ĐỊNH còn có nghĩa là Tĩnh Lự hay Tư Duy Tu. Nếu chỉ Ngồi tĩnh lặng, dừng cái tâm, không suy nghĩ gì cả, thì rơi vào trường hợp bị khiển trách trong kinh DUY MA CẬT, là “Ngồi sững ở đó”. Nếu TƯ DUY mà không đúng hướng thì gọi là TÀ TƯ DUY. Cả hai cách ngồi đều không thể đạt được kết quả. Cũng chính vì vậy mà trong TỨ Y, Đức Thích Ca có dặn dò là Y PHÁP BẤT Y NHÂN. Có nghĩa là nương theo cái Pháp như thế nào để đạt mục đích, đừng nương theo người đã thực hành pháp đó.
Còn có một loại THIỀN mà Lục Tổ đã áp dụng gọi là THIỀN VÔ TƯỚNG. Bởi thời gian 8 tháng ở sau Chùa của Ngũ Tổ, Ngài chỉ chẻ củi, giã gạo, đâu có thì giờ để NGỒI THIỀN mà vẫn Đắc Pháp? Cho nên, người hiểu được mục đích và phương tiện của Thiền Định thì ngồi hay không ngồi cũng Thiền Định được. Ngược lại, người đã không hiểu thì có NGỒI cả đời cũng chẳng đi đến kết quả là như thế.
5)- Giác Ngộ là giác những gì? Làm thế nào để Giác Ngộ?
Có nhiều cách để giải thích về từ Giác Ngộ. Từ điển Phật học của Ông Đoàn Trung Còn giải thích như sau: “Hội được Chân Lý. Mở mang Chân trí. Về Giác Ngộ có nhiều trình độ, như kẻ phàm phu tỉnh ra nhận được Thân này là cội Khổ. Đời mình là Khổ, bèn tinh tấn tu hành, tại gia hay xuất gia. Đức Phật thành đạo nơi cội Bồ Đề lên bậc Chánh Đẳng Chánh Giác tức Đại Giác Ngộ” Cái NGỘ của Đạo Phật không chỉ là “Ngộ được rằng Mara là một phần của Ngài” như những nhà khảo cổ đã nhận định. Đó cũng chỉ là một trong những điều mà Ngài đã Ngộ ra. Trong Đạo Phật, cái Ngộ quan trọng hơn hết là việc TÌM RA ĐƯỢC THỦ PHẠM CỦA SINH TỬ LUÂN HỒI, CŨNG NHƯ CÁCH THỨC ĐỂ HÓA GIẢI.
Chư cổ đức có câu: “Nghi lớn, ngộ lớn. Nghi nhỏ ngộ nhỏ. Không nghi thì không ngộ”. Tức là khi giải quyết được một nghi tình nào đó thì Ngộ được pháp đó, không phải là Ngộ luôn tất cả các pháp khác. Trong Đạo Phật có vô số nghi tình cần hiểu rõ để thực hành. Lục Tổ dạy: “Mọi sự, lý phải hiểu đến tận chỗ chơn. Tất cả sự lý phải hiểu đến tận chỗ chơn” để nhắc nhở mỗi người tu phải vận dụng Trí Huệ để tự phá mê cho đến khi sáng suốt. Đó cũng gọi là khai mở CÁI BIẾT, hay là Chuyển Mê thành Ngộ vậy.
Bậc Giác Ngộ là người nhận ra được cái BỔN THỂ TÂM hay là cái CHÂN TÂM hay CHÂN TÁNH là Bản Tánh thật sự của họ. Cái NGỘ được diễn tả qua 4 câu kệ của Lục Tổ Huệ Năng trong PHÁP BẢO ĐÀN KINH:
“Nào dè Tánh mình vốn tự nhiên trong sạch
Nào dè Tánh mình chứa đầy đủ muôn pháp
Nào dè Tánh mình vốn không lay động
Nào dè Tánh mình có thể sanh ra muôn pháp ”
Cái Ngộ này cũng là THẤY TÁNH. Đó là bước ngoặc quan trọng nhất của người tu mà có nơi gọi là “Thấy Tánh thành Phật”. Có nghĩa là sau khi đã Thấy Tánh thì mau hay lâu, chắc chắn người Thấy đó cũng sẽ được Giải Thoát hay Thành Phật.
6/- Tại sao bậc Giác Ngộ thì Thoát Sinh Tử? Cái Thoát đó ra sao?
Con người từ khi ý thức được Mình thì thấy cái THÂN là Mình. Ở trong đó mà Vui, Buồn, Giận, Hờn, Thương, Ghét, Khổ, Vui theo cái Được, cái Mất với các pháp đến với cái Thân. Sống đầy đủ với những cảm giác của các giác quan. Khi cái Thân tồn tại thì họ thấy là mình đang Sống. Khi cái Thân hết Nghiệp mà chết đi thì họ thấy là mình Chết. Vì vậy mà gọi là bị SINH, TỬ.
Bậc Giác Ngộ là người ý thức được rằng cái Thân chỉ là một món của họ đang tạm ứng hiện trong đó. Không phải là họ, nên cuộc sống họ không chìu theo Mắt, theo Tai để giận hờn, thương, ghét, muốn lấy, muốn bỏ các pháp. Nhờ ý thức rằng tất cả chỉ là Duyên, là Nghiệp, nên không tranh giành, hơn thua với đời. Chỉ sống một cách vừa phải, làm tròn trách nhiệm của kiếp sống như mọi người trong xã hội. Khi cái thân hết duyên, hết Nghiệp mà chết đi, thì họ biết rằng đó là sự tan rã tất yếu của nó. Không phải là họ chết. Ngay khi sống thì họ không đắm đuối vào cái Thân nên họ THOÁT SINH. Lúc cái Thân tan rã, họ biết đó là lúc nó hết Nghiệp, không phải họ Chết, nên họ không đau khổ, lo sợ, nên gọi là họ THOÁT TỬ.
Cái “Thoát” đó có nghĩa là vẫn ở trong cảnh đó mà không bị ảnh hưởng, không dính mắc. Không phải là ra ngoài cảnh đó. Đức Thích Ca ngày xưa cũng vẫn Sống trong cái thân giả tạm. Nhưng Ngài không để cho nó làm chủ, mà điều khiển nó. Nên Ngài Thoát Sinh. Cái Thân của Ngài vẫn Chết, nhưng vì Ngài không trụ vào cái Thân hư dối. Nên Ngài Thoát TỬ, gọi chung là THOÁT SINH TỬ.