+ Trả lời Chủ đề
Kết quả 1 đến 5 của 5

Chủ đề: Gương Sáng/Tối trong Tăng đoàn Phật giáo

  1. #1
    ChanLy
    Guest

    Gương Sáng/Tối trong Tăng đoàn Phật giáo

    Sagarhavā, nơi dòng họ Thích Ca bị thảm sát

    Thời ấy nước Ấn Ðộ, giống như dưới thời Chiến Quốc ở Trung Hoa, phân thành rất nhiều nước nhỏ, mà giàu mạnh nhất phải nói là nước Kiều Tát Di La.

    Có một hôm, vua của nước Kiều Tát Di La là vua Ba Tư Nặc xin cầu thân với nước lân bang là nước Ca Tỳ La Vệ, vì ở Ấn Ðộ lúc ấy, nước Ca Tỳ La Vệ nổi tiếng là nước có nhiều mỹ nhân. Nước Ca Tỳ La Vệ tuy nhỏ bé nhưng không muốn đưa nàng công chúa xinh đẹp tuyệt vời của họ về làm vương phi nước Kiều Tát Di La, vì thế trưởng giả Ma Ha Nam trong thành mới nghĩ ra một kế, đó là đưa cô tỳ nữ Mạt Lợi trong nhà cho cải trang làm công chúa, gả cho về làm hoàng hậu của vua Ba Tư Nặc.

    Cả nước Kiều Tát Di La đã bị mắc lừa, và đây cũng là nguyên nhân đưa nước Ca Tỳ La Vệ đến chỗ diệt vong sau này.

    Cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly (Vidūdabha), được ghi lại một cách chi tiết trong kinh Tăng Nhất A Hàm. Từ Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) đi về hướng Tây Bắc 10 km chúng ta sẽ đến một khu làng dân cư thưa thớt, nằm giữa khu làng là một cái bể hình chữ nhật dài 500m tên Lambu Sagar. Nơi này đã được ghi nhận là nơi xảy ra cuộc thảm sát do vua Tỳ Lưu Ly, người kế thừa vương vị của vua Ba Tư Nặc (Pasenadi), nước Kiều Tát La (Kosala), đã tàn sát dòng họ Thích Ca. Nơi đây người ta tìm thấy 17 ngọn tháp cổ và một vài di tích cổ còn sót lại. Những tảng đá mang hình hoa sen nở và các vũ khí thời xưa. Trong một ngôi tháp người ta phát hiện một cái rương bằng đất nung đựng xương xá lợi, vàng bạc, đá quý và nhiều đồ trang sức.

    Nguyên nhân của cuộc thảm sát này, bắt nguồn từ dòng họ Thích Ca những người đã miệt thị thái tử Tỳ Lưu Ly, con của vua Ba Tư Nặc. Khi vua Ba Tư Nặc gởi một sứ thần sang Ca Tỳ La Vệ để tìm bang giao với dòng họ Thích qua một cuộc hôn nhân, dòng họ Thích cho rằng nhà vua không phải thuộc người trong tộc nên đã gả cho nhà vua một đứa con gái tên là Vasabha Khattiya con của người thị nữ lai huyết thống của hai giai cấp giữa Sát Đế Lợi và Chiên Đà La đồng thời kèm theo của hồi môn rộng rãi. Vua Ba Tư Nặc đã phong bà làm hoàng hậu và phong con bà Tỳ Lưu Ly làm thái tử. Năm lên bảy tuổi, có một lần Tỳ Lưu Ly bị mặc cảm vì không được nhận quà từ bà ngoại trong khi các công tử khác đều có. Năm 16 tuổi hoàng tử thiếu niên Tỳ Lưu Ly về lại Ca Tỳ La Vệ thăm cậu để học hỏi với các hoàng tử họ Thích. Khi đến phía Nam của hoàng thành, chàng thấy một giảng đường rất mới, nên cho xe dừng lại để ngắm nhìn. Những người dòng họ Thích biết thế nên đã đuổi chàng bằng những lời đầy khinh thị: “Vô lễ kẻ hạ tiện kia! dám choáng chỗ của người dòng họ Thích, nơi để đón rước Đức Phật”. Vì bị sỉ nhục và biết rằng cha mình bị dòng họ Thích Ca lường gạt nên Tỳ Lưu Ly nuôi mối hận này và quyết lòng san bằng kinh thành Ca Tỳ La Vệ để rửa hận. Vì vậy, khi nhiếp chính thay vua Ba Tư Nặc, Tỳ Lưu Ly mang đoàn quân thiện chiến sát phạt toàn bộ dòng tộc Thích Ca.

    Hồ này là di chứng của một dòng sông đẫm máu của bộ tộc Thích Ca thời xa xưa, nó đã chứa đựng biết bao vong hồn oan nghiệt, những tiếng kêu thảm thiết của những người vô tội. Và trong kinh chép lại rằng, cũng ngay trong đêm ấy, đoàn quân thiện chiến của vua Tỳ Lưu Ly cũng bị nước lũ cuốn trôi.

    THẦN THÔNG CHẲNG QUA NGHIỆP LỰC

    Thần thông của Mục-kiền-liên trong hàng đệ tử Phật không ai sánh bằng, phàm làm việc gì Ngài vận dụng thần thông đều thành tựu.

    Thần thông rất tiện cho việc tiếp dẫn chúng sanh, nhưng thần thông không thể trái ngược phép tắc nhân quả, không thể thắng nghiệp lực, không thể giải thoát sanh tử phiền não, đó là sự thật.

    Khi thành Ca-tỳ-la bị vua Lưu Ly nước Kiều-tát-la (Kosala) xâm lược. Ban đầu đức Thế Tôn cũng động lòng ái quốc tìm cách giải cứu, ba phen ngồi chận đường cản trở đại quân của vua Lưu Ly. Tuy vua Lưu Ly mỗi lần gặp Phật, mỗi lần lui binh nhưng lòng thù hận muốn báo thù và xâm lược không dứt được. Đức Phật biết sự báo ứng của nhân quả, muốn để cho nó tự kết thúc nên sau đó đành để cho vua Lưu Ly tự do đi.

    Thật là thần thông của Mục-kiền-liên không thể giải được hết sạch nghiệp báo. Tôn giả biết đại quân của vua Lưu Ly bao vây thành Ca-tỳ-la, và rất kích động đến bạch Phật:

    - Thưa Thế Tôn! Thành Ca-tỳ-la bị vua Lưu Ly xâm lược, chúng con cần phải tận lực để bảo cứu nhân dân trong thành.

    Đức Phật nhìn Tôn giả giây lâu rồi từ hòa nói:

    - Mục-kiền-liên! Dòng Thích-ca chịu quả báo của tội nghiệp nhiều kiếp đã qua. Đó là cộng nghiệp chiêu cảm, ông không thể chịu thay cho họ. Họ chẳng chịu sám hối, một bề kiêu mạn, không sửa đổi, nhà cửa mục nát thì đến ngày sụp đổ thôi!

    Mục-kiền-liên nghe Phật nói, tuy biết đó là sự thật, nhưng nghĩ đến thần thông quảng đại của mình, muốn dùng để cứu nạn dân chúng trong thành.

    Vua Lưu Ly dùng trăm vạn đại quân vây khốn Ca-tỳ-la, một giọt nước cũng không lọt, người ta làm sao đi lại. Chỉ có Mục-kiền-liên vận thần thông nương hư không bay vào thành. Tôn giả vào thành rồi, chọn năm trăm người ưu tú trong dòng Thích-ca thâu nhiếp vào trong bình bát, và bay ra. Đến một nơi an ổn, Ngài mở nắp bát tính thả năm trăm người ấy ra, chẳng dè không thấy gì cả. Một phen nhìn xuống thất kinh hồn vía, năm trăm người trong bát đều hóa thành máu cả.

    Đến lúc này Tôn giả mới biết lời Phật nói không sai, phép tắc nhân duyên chẳng thể làm ngược lại, dầu kể là thần thông cũng không qua nghiệp lực.

    ĐỨC HẠNH NHẪN VÀ NHƯỜNG

    Xá-lợi-phất đối với giáo pháp của đức Phật luôn tôn kính và phụng trì, đối với việc bố giáo chưa từng thoái chí, chỉ đối với riêng mình thì vinh nhục khen chê đều chẳng lưu tâm, thảy đều nhường nhịn.

    Có một hôm, đức Phật dẫn đại chúng đi bố giáo và trở về thành Xá-vệ, lúc đó nhóm đồ đệ của Lục Quần Tỳ-kheo, đã nhanh chân đến Kỳ Hoàn tinh xá trước đức Phật và đại chúng, chiếm luôn những chỗ nghỉ ngơi tốt đẹp, ngay cả cư thất của Xá-lợi-phất cũng bị chiếm. Họ lại nói: Chỗ này là chỗ của thầy chúng ta, chỗ này là chỗ của chúng ta.

    Xá-lợi-phất về sau đức Phật, ngày đó vì hơi chậm chân, khi về đến tinh xá thấy chỗ của mình bị Lục Quần Tỳ-kheo đã ở trước, không còn cách nào khác, Tôn giả bèn ra gốc cây ngồi thiền qua đêm. Sáng sớm, đức Phật dậy, nghe dưới gốc cây có tiếng ho hen, Ngài bèn hỏi:

    - Ai ở đó? Sao không tịnh tọa trong phòng?

    Xá-lợi-phất thưa:

    - Bạch Thế Tôn! đệ tử là Xá-lợi-phất, vì hôm qua có rất nhiều Tỳ-kheo theo Phật về tinh xá, tất cả phòng đều có người, con tạm ngủ dưới gốc cây một đêm cũng không sao.

    Đức Phật nghe xong rất khen đức tốt nhẫn nhượng của Tôn giả, nhưng nhóm các Tỳ-kheo lại dạy:

    - Này các Tỳ-kheo! tôi hỏi các ông, trong giáo đoàn ta, người nào xứng đáng được thọ lãnh sàng tòa thượng đẳng, nước thượng đẳng, ẩm thực thượng đẳng?

    Các Tỳ-kheo ồn ào bày tỏ ý kiến:

    - Đó là Tỳ-kheo xuất thân từ dòng vua chúa!

    - Đó là Tỳ-kheo xuất thân từ dòng giáo sĩ!

    - Tỳ-kheo nào tu hành và có khả năng bố giáo mới xứng đáng được sàng tòa hạng nhất, nước và thực phẩm hạng nhất!

    Sau khi nghe các câu trả lời lung tung, đức Phật nghiêm nghị bảo:

    - Các Tỳ-kheo! Thuở xưa tại núi Tuyết có chim chá cô, con khỉ, con voi đồng ở chung. Tuy chúng là bằng hữu, nhưng vì thân thể, sức lực và trí khôn của mỗi con không đồng nhau, nên mạnh ai nấy tự cao tự đại, không tôn kính lẫn nhau. Sau biết như vậy là sai trái, mới cung kính và nghe lời răn dạy của loài lớn tuổi, đến khi thân hoại mạng chung, chúng đều sanh vào đường lành.

    Các Tỳ-kheo! Các ông phải tôn kính bậc niên lão về pháp hạnh, hiện tại được người khen ngợi, về sau mới được sanh chỗ lành. Này các Tỳ-kheo! Trong giáo pháp ta không có giai cấp cao thấp, nhưng có bậc trưởng lão về pháp lạp và giới lạp, các ông phải cung kính, phụng sự, lễ bái. Các bậc trưởng lão ấy đáng được thọ sàng tòa đệ nhất, nước và thực phẩm đệ nhất .

    Đức Phật nói như thế, đại chúng đều hiểu ý, Xá-lợi-phất rất cảm kích, đại chúng cũng rất cảm kích.

  2. #2
    ChanLy
    Guest

    Re: Gương Sáng/Tối trong Tăng đoàn Phật giáo

    LÒNG KHOAN DUNG RỘNG RÃI

    Tuổi tác của Xá-lợi-phất theo luật vô thường năm tháng gia tăng, Ngài đến lúc là một bậc cao niên tám mươi tuổi. Năm ấy, sau mùa an cư ở Kỳ Viên, vì việc hoằng pháp độ sanh, Ngài không nề tuổi già, không từ lao khổ, thỉnh cầu đức Phật cho phép Ngài đi du phương hóa đạo. Phật hứa khả và rất khen ngợi tinh thần vì người, vì giáo lý của Xá-lợi-phất.

    Tôn giả rời tinh xá không bao lâu, có một Tỳ-kheo đến bạch Phật:

    - Bạch Thế Tôn! Xá-lợi-phất đi vân du hôm nay không phải vì tuyên dương Phật pháp, mà vì ông ấy đã làm nhục đệ tử, gặp mặt đệ tử thấy hổ thẹn muốn tránh mặt nên mới kiếm chuyện đi phương khác.

    Đức Phật không đồng tình kẻ phỉ báng người vắng mặt, nghe xong lập tức sai người mời Xá-lợi-phất trở lại, và ở trước đại chúng, Phật nghiêm nghị hỏi Xá-lợi-phất:

    - Xá-lợi-phất, sau khi ông đi không lâu, có một Tỳ-kheo đến mách với ta rằng ông đã khi dể, nhục mạ ông ấy, có thật vậy không?

    Xá-lợi-phất ôn hòa cung kính thưa:

    - Bạch Thế Tôn! Từ khi đệ tử theo Ngài đến nay, nay là gần tám mươi tuổi, đệ tử hằng nhớ mình chưa từng sát hại sinh mạng, chưa hề nói lời hư vọng, chỉ trừ khi vì muốn tuyên dương chân lý, cũng chưa từng nói chuyện riêng tư lợi hại được mất của người, cùng người bàn tán tốt xấu. Hôm nay là ngày rốt sau của an cư, trong ba tháng qua, mỗi ngày đệ tử đều sám hối, không mất chánh niệm, tâm đệ tử trong lặng, không có một vẻ bất bình, thì làm sao khinh thị người khác được ư?

    Bạch Thế Tôn! Đất bùn hay nhẫn nhục, bất cứ vật gì nhơ uế đổ lên, đất không cự tuyệt. Phẩn tiểu, máu mủ, đờm dãi đất đều cam thọ cũng như kẹo ngon. Tâm con hôm nay bộc bạch trước đức Thế Tôn, nguyện như sức nhẫn nhục của đại địa, nguyện không trái nghịch ý người.

    Dòng nước thanh tịnh, không kể vật sạch dơ hay cũ mới đều dùng nước để rửa sạch. Tâm con không yêu ghét, cũng như dòng nước.

    Bạch Thế Tôn! Cây chổi dùng để quét bụi, khi quét dọn không chọn lựa tốt xấu, tâm đệ tử hôm nay thật là không hề khởi phân biệt tốt xấu. Đệ tử ở trong chánh niệm, quyết không hề khinh tiện vị Tỳ-kheo kia, đệ tử đối Phật mà nói lời này, luôn biết việc làm của mình, Tỳ-kheo kia cũng biết việc làm của vị ấy. Như nếu đệ tử có lỗi, đệ tử xin hướng về Tỳ-kheo ấy sám hối để tâm mình khỏi bị cắn rứt.

    Vị trưởng lão gần tám mươi tuổi, đã đối trước Phật cáo bạch mọi việc như thật, đại chúng nghe qua đều cảm động.

    Phật bảo ông Tỳ-kheo vu cáo kia:

    - Ông có lỗi hủy báng trưởng lão, bây giờ không thể không sám hối. Ông đã có ý khiến Tăng đoàn phân vân, ông chẳng muốn cho Tăng đoàn hòa hợp. Nếu như ông không chí thành sửa đổi, sẽ bị khổ báo vô cùng!

    Tỳ-kheo kia vội vàng quỳ trước Phật ai cầu sám hối:

    - Bạch Thế Tôn! Tôn giả Xá-lợi-phất là người không lỗi chi, đệ tử đối với bậc Trí tuệ năng lực như thế mà không biết nhún mình học tập, lại sanh tật đố, xin Phật từ bi thương xót, cho đệ tử cơ hội đầu tiên sám hối.

    Đức Phật trang nghiêm từ hòa bảo:

    - Ông hãy đến sám hối Xá-lợi-phất.

    Tỳ-kheo ấy phủ phục cúi đầu quỳ trước Xá-lợi-phất, Tôn giả bèn để tay lên đầu ông mà từ tốn nói:

    - Tỳ-kheo! Trong giáo pháp của Phật, sám hối có sức mạnh vô cùng. Làm người ai không khỏi lầm lỗi? Biết lỗi liền sửa, đó là việc lành rất lớn. Tôi nhận sự sám hối của ông, từ đây về sau đừng tái phạm.

    Thái độ và lời nói của Xá-lợi-phất, ai nghe cũng cảm động. Lòng quảng đại, tâm bình đẳng của Tôn giả thật là không kể kẻ oán người thân.


    Giải Không Đệ Nhất

    Làm người trên cõi đời này, dù là một ông thánh đi nữa cũng lắm phen bị chê cười phỉ báng. Cho nên chẳng kể bạn như là một viên ngọc không tỳ vết, xa lìa mọi thứ danh văn lợi dưỡng, vì chúng sanh giúp ích rất nhiều, vậy mà cái bọn phàm phu tục tử của thế gian cũng muốn kiếm chuyện nói xấu bạn thế này thế nọ.

    Tu-bồ-đề tu đạo, hoằng hóa, mỗi ngày làm việc lợi lạc khắp quần sanh, nhưng nhân tình ấm lạnh, miệng lưỡi lắm lời cũng không buông tha Tôn giả. Song, Tôn giả xem những thứ ấy như gió thoảng ngoài tai, chẳng hề động tâm sanh lòng.

    Một hôm, trên đường thuyết pháp hoằng hóa, Tôn giả nghe có người phê bình mình. Họ nói: “Tu-bồ-đề là cái thá gì. Ông ấy chẳng làm nên tích sự, ở trong Tăng chúng giống như một tên ngáo, không có chút sống động coi cho ra hồn.”
    Lại có các Tỳ-kheo nghe như vậy, bất bình giùm Tôn giả. Họ hỏi Tu-bồ-đề sao không trả lời lại, Tu-bồ-đề an nhiên, hòa nhã mà đáp:

    - Thưa các vị! Đa tạ các vị có lòng yêu mến bạn đạo, nhưng xin các vị chớ có khởi lòng bất bình như vậy. Biện bạch vô ích là một thứ tranh luận, tranh luận là tâm còn hơn thua, rất trái xa chân lý. Chúng ta là người tu, đối với những lời gièm pha, phỉ báng, cho tới nghịch cảnh ma nạn đều phải xem đó như là cái duyên tăng thượng để trợ đạo. Nhờ đó mà tiêu trừ nghiệp chướng, lại tăng lòng tin mạnh mẽ. Vả lại, trong thế giới của chân lý, không có chuyện tranh cãi. Chân lý là không ta không người, không đây không kia, không có cao thấp, không còn thánh phàm. Tôi đã biết lý chân không vô trụ, một tướng bình đẳng, cho nên cái tâm của tôi, như vạn lý tình không, một chút xíu cũng không có, tôi biện bạch với họ để làm chi.
    Tu-bồ-đề - Giải không, tấm lòng và tâm niệm khoáng đạt tự tại như thế, nên các Tỳ-kheo rất khâm phục tác phong của Tôn giả.

    Tu-bồ-đề đối với chúng sanh luôn dùng đức nhẫn nhục, thật là người cao thượng hạng nhất. Tôn giả thường nói: Nếu như có chúng sanh nói tôi đứng hoài không tốt, thì tôi liền ngồi suốt ngày, như còn chê tôi ngồi hoài không được, thì tôi sẽ đứng luôn cả ngày. Tôi đối với tất cả pháp không khởi một tí phiền não và không làm phiền một chúng sanh nào.

    Tu-bồ-đề, hay tùy thuận thế gian, hành đại nhẫn nhục, đối với bất cứ ai đều không não loạn họ, không tranh cãi với họ, đều là vì Tôn giả thông đạt tánh Không.

    Đức Phật biết Tu-bồ-đề tu hành như thế rất hoan hỷ vui lòng, một hôm trên hội Bát-nhã Ngài khen ngợi:

    - Tu-bồ-đề! Trong hàng sa môn, người tu đạt đến trình độ như ông thật hiếm có. Ông đã thể chứng Vô tránh tam-muội, đó là đệ nhất trong tu tập quả vị a la hán, ta chúc mừng cho ông. Ông đã là vị A-la-hán ly dục bậc nhất!

    Tu-bồ-đề được Phật khen ngợi, trong tâm rất cảm kích mừng vui, nhưng lại chẳng dám tự đắc. Tôn giả chắp tay đảnh lễ và nói:

    - Bạch Thế Tôn! Ngài ban cho đệ tử những lời từ bi ái hộ, khích lệ, đệ tử đem hết tâm tư cùng bất tận sự cảm kích. Thế Tôn nói đệ tử là A-la-hán ly dục số một, nhưng đệ tử chẳng hề nghĩ rằng mình là A-la-hán ly dục, nếu đệ tử nghĩ như vậy thì chưa dứt hết ngã chấp, rốt cuộc cũng còn chìm đắm trong pháp chấp, có chứng có đắc. Bạch Thế Tôn! Đệ tử không nghĩ như vậy, cũng không làm như vậy, vì nhân duyên vô sanh vô vi, đức Thế Tôn mới nói với con những lời ái hộ mỹ mãn!

    Tu-bồ-đề rất khiêm tốn và rất khéo dùng lời, từ đó chúng ta có thể biết Tôn giả là một vị thánh A-la-hán.

  3. #3
    ChanLy
    Guest

    Re: Gương Sáng/Tối trong Tăng đoàn Phật giáo

    Phú-lâu-na - gương hoằng pháp bi tráng

    Đọc đoạn đối thoại ngắn giữa đức Phật và Phú-lâu-na khi Phú-lâu-na phát nguyện đi giáo hóa ở xứ Du-lô-na, chúng ta ai cũng cảm khái tinh thần dõng mãnh, vô úy của Ngài:

    - Bạch Thế Tôn! Xin Ngài từ bi cho phép con đến nước Du-lô-na bố giáo!

    Đức Phật nghe nói, rất hoan hỷ, nhưng đức Phật là một nhà truyền giáo vĩ đại, Ngài biết chuyện ấy không phải dễ. Thế Tôn nói:

    - Phú-lâu-na! Việc giáo hóa chúng sinh, lợi mình lợi người, ta rất vui về chí nguyện của ông, ông đi giáo hóa các nơi ta đều yên lòng. Không nhất thiết phải đến Du-lô-na. Tốt nhất ông nên chọn nơi nào khác.

    - Bạch Thế Tôn! Ngài thường dạy, hễ nơi nào có chúng sinh đáng độ phải đến đó dạy dỗ cho họ.

    “Hãy lên đường, này các Tỳ-kheo, vì ích lợi cho số đông, vì an lạc cho số đông, vì thương tưởng thế gian, vì lợi ích và an lạc của chư thiên và nhân loại."

    Đức Phật giải thích:

    - Phú-lâu-na! Du-lô-na là một nước nhỏ hẻo lánh, không có đường giao thông thuận tiện, giáo hóa chẳng được như ý, dân chúng tánh tình hung bạo, quen thói hung bạo đánh chửi. Người nước ngoài đến nước đó, sẽ gặp nhiều trở ngại. Ông không sợ nguy hiểm sao?

    Nghe Phật nói như vậy, Phú-lâu-na chỉ mỉm cười, biểu lộ chí nguyện cương quyết của mình.

    Theo kinh Tạp A-hàm quyển 13 và luật Ma-ha Tăng-kì quyển 23, người Du-lô-na[1] ở miền Tây Ấn Độ hung ác, thô bạo, thích chửi mắng. Phú-lâu-na đã kiên quyết dõng mãnh xin đức Phật đến giáo hóa dân tình xứ đó. Ngài đã thuyết pháp độ được 500 Ưu-bà-tắc, xây dựng 500 tăng-già-lam, khiến cho việc An cư mùa Hạ được đầy đủ. Sau, Ngài nhập Vô dư niết-bàn ở xứ này.

    Câu chuyện lên đến cao trào khi Thế Tôn đặt ra những vấn đề thiết thực có thể xảy ra và để thăm dò cách ứng xử ở người đệ tử nhiệt tâm:

    - Phú-lâu-na! Ông nói đúng, làm đệ tử Như Lai, đi giáo hóa chúng sinh là việc trọng yếu nhất. Nay Như Lai hỏi ông. Ông đến Du-lô-na, nếu như họ không chấp nhận ông, mà lớn tiếng chửi mắng, ông sẽ làm sao?

    - Bạch Thế Tôn! Họ mắng chửi đệ tử, đệ tử vẫn thấy họ còn tốt vì họ cũng chưa lỗ mãng đến nỗi dùng roi gậy đánh đập đệ tử.

    - Nếu như họ dùng nắm tay, gạch ngói, roi gậy đánh ông?

    - Đệ tử vẫn thấy họ còn tốt, chưa đến nỗi đâm chém đệ tử.

    - Nếu như họ dùng dao búa như thế?

    - Đệ tử cũng cho họ rất tốt, họ cũng còn tình người chưa đến nỗi giết đệ tử.

    - Nếu như họ giết ông chết?

    - Nếu thế đệ tử cám ơn họ, đã giết sắc thân của đệ tử, hỗ trợ cho đạo nghiệp của đệ tử, giúp đệ tử đem sinh mạng báo đáp ân đức của Thế Tôn, điều ấy với đệ tử tuy không có trở ngại, chỉ sợ di hại ảnh hưởng không tốt cho họ thôi.

    Đức Phật rất hoan hỷ, khen ngợi Tôn giả:

    - Phú-lâu-na! Ông không hổ danh là đệ tử Như Lai, biết giáo hóa, nhẫn nhục. Tâm cảnh của ông rất bình an, Như Lai sẽ đưa ông lên đường![2]


    Nước Du-lô-na đất xấu dân nghèo, chỗ nào không núi cao thì cũng nước sâu, toàn quốc đã không có đô thị phồn hoa, lại rất ít có xóm làng đông đúc, dân chỉ sinh sống bằng nghề săn bắn, ăn lông ở lỗ.

    Khi tôn giả mới đến, chẳng vội giáo hóa thuyết pháp ngay, trước đó tôn giả học xong ngôn ngữ địa phương Du-lô-na để tiện vào trong công tác truyền giáo, ngoài ngôn ngữ ra còn phải chuẩn bị nhiều điều kiện.

    Dân Du-lô-na đối với tiếng nói không mấy cách biệt, nhưng mọi người thấy Ngài đắp y mang bát đều nhìn với cặp mắt kỳ quái. Tôn giả biết rằng tại địa phương văn hóa lạc hậu như thế, nếu không dùng phương tiện thì khó mà khai phát lòng tin cho họ. Ngài cũng biết lúc này mà nói chân lý đàm huyền luận diệu thì chẳng ai thèm nghe, chủ yếu trước tiên là phải cải thiện nếp sống của dân chúng. Hoằng pháp không ra ngoài sinh hoạt của thế gian. Do đó, tạm thời Ngài không cho biết thân phận sa-môn của mình, chỉ như một ông thầy thuốc, mỗi ngày lo thăm bịnh và khám hộ người bệnh.

    Phú-lâu-na có nhiều phương thuốc trị bệnh rất đơn giản, không kể xóm làng xa xôi, cho đến phải trèo đèo vượt suối, hễ nghe tiếng bệnh rên rỉ, ngài liền lập tức đến nơi, không kể ngày đêm, không kể đầu non, cuối bể. Người bệnh thấy Ngài như thấy vị cứu tinh, bệnh nặng đến đâu cũng tiêu nhiên qua khỏi.

    Phú-lâu-na lại có tư cách một nhà giáo dục, dạy học hành chữ nghĩa rành rẽ. Ban ngày dạy cho cách trồng trọt kịp thời tiết, những phương pháp trị gia, chiều đến nhóm họp mọi người lại, giảng dạy về nhân quả báo ứng của Ngũ giới, Thập thiện. Chẳng bao lâu, dân nước Du-lô-na đều quy y Phật, và tại đây, tôn giả thâu phục 500 đệ tử, thành lập 500 ngôi tinh xá.[5]

    Nhờ những công hạnh như vậy, ngài đã thành công trong việc khiến cho những người dân nghèo ở xứ xa xôi ấy quy y Tam bảo. Vì vậy, ngài đã không bị xua đuổi, đánh đập, bỏ thân nơi xứ lạ ấy như dự kiến ban đầu.

    Một hôm nọ, Thế Tôn trên pháp tòa nhìn xuống thấy Phú-lâu-na đang cùng chúng đảnh lễ, đức Phật cười hỏi:

    - Phú-lâu-na! Ông về đấy ư! Đại chúng đều lo lắng cho ông! Ông hóa độ chúng sinh tại nước Du-lô-na thành công chăng? Ông giúp ta tuyên dương chân lý, tinh thần bố giáo, thể chất thanh khiết đều hoàn toàn. Về phương diện tinh thần, ông đã xác định lòng tin vững chắc nơi Tam bảo, ông đã tu dưỡng đầy đủ từ bi, trầm tĩnh, tài trí, dũng cảm, về mặt thể chất ông đã tu luyện thân thể khỏe mạnh, phẩm hạnh, phong độ, âm thanh, biện tài đều hoàn bị. Phú-lâu-na, ta rất an lòng khi ông đến Du-lô-na bố giáo.

    Đức Phật ngưng một chút, lại bảo đại chúng:

    - Các Tỳ-kheo! Trong hàng đệ tử ta được như Phú-lâu-na mới xứng đáng với danh xưng thuyết pháp đệ nhất, các ông nên noi gương Phú-lâu-na.[6]

    Từ đó, trong việc truyền bá giáo pháp Như Lai, ngài đã giúp cho hàng Tỳ-kheo trẻ có một ý chí dõng mãnh, một tinh thần vô úy qua việc thực hành theo lời dạy của đức Phật về mười đức bố giáo. Đó là:

    1. Khéo biết pháp nghĩa
    2. Có thể giảng thuyết
    3. Không sợ sệt trước đám đông
    4. Biện tài vô ngại
    5. Nhiều phương tiện khéo
    6. Tùy theo pháp mà ban bố
    7. Đầy đủ oai nghi
    8. Dũng mãnh tinh tấn
    9. Thân tâm không mệt mỏi
    10. Thành tựu oai lực.

    Ngài có biện tài vô ngại, khéo phân biệt nghĩa lý, nên ngài thành tựu công hạnh thuyết pháp giáo hóa. Số người nhờ nghe ngài thuyết pháp mà được giải thoát có tới 9 vạn 9 nghìn, thế nên Ngài được tôn là “Thuyết Pháp Đệ Nhất”.

    TU TẬP TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ CỦA CÁC BẬC ĐẠI NHÂN:

    Tôn giả A Na Luật, một mặt cần cù trong việc hoằng pháp lợi sinh, một mặt vẫn tinh tấn trong công phu tu học. Một hôm, trong lúc thiền tọa tại một làng nọ thuộc nước Chi Đề (Cedi), tôn giả quán niệm rằng: “Không phải do tham dục mà đạt được Đạo, mà chính là do tâm biết đủ (tri túc); không phải ờ nơi ồn ào náo nhiệt mà tìm được Đạo, mà chính là ở nơi vắng lặng tịch mịch; muốn thấy được Đạo cần phải siêng năng, thường xuyên có chánh niệm, lại còn phải đa văn và rèn luyện trí tuệ”.

    Bấy giờ Phật đang ngự tại một khu vườn ở nước Bà Kì Dũ. Trong lúc A Na Luật quán niệm những điều như trên thì Phật thấy rõ được tâm ý ấy của tôn giả, bèn đến tận nơi để khen ngợi và khích lệ. Lại được Phật quang lâm thăm hỏi, tôn giả xúc động vô cùng. Nhân đó tôn giả đem tư tưởng của mình trình bày lên, xin Phật ấn chứng, và thưa hỏi thêm:

    - Bạch Thế Tôn! Theo tinh thần “Sáu nguyên tắc sống chung hòa hợp” (Lục hòa), mỗi cá nhân trong tăng đoàn phải quên đi những gì riêng tư, phải quên đi cái bản ngã nhỏ mọn của mình; đối với chúng sinh thì phải tuyệt đối dùng đức từ bi và lòng nhân ái để đối xử; những điều đó chúng con phải hiểu biết và phải thực hành trọn vẹn. Nhưng, bạch Thế Tôn các tín đồ tại gia thì rất đông, và các vị đệ tử xuất gia của Thế Tôn thường xuyên gần gũi với xã hội để hoằng pháp lợi sinh cũng rất đông; đối với những vị này, muốn cầu được giác ngộ và chứng nhập niết bàn thì làm thế nào, xin Thế Tôn từ bi khai thị.

    - Thầy A Na Luật! Câu hỏi của thầy thật hữu ích! Những điều thầy đề cập tới đúng là những điều cần thiết của những người muốn tu học theo hạnh nguyện bồ tát. Thầy A Na Luật! Có tám điều giác ngộ của các bậc đại nhân mà bất cứ là đệ tử của Như Lai, bất luận ngày đêm, đều phải tinh tấn hành trì:

    - Điều thứ nhất: Phải thường xuyên quán chiếu để thấy được những tính cách vô thường, giả tạm, đau khổ, không thanh tịnh, không có tự ngã của thế gian. Phải quyết chí xa lìa sinh tử thì được giác ngộ.

    - Điều thứ hai: Phải thường xuyên quán chiếu để thấy được tâm tham dục và bám chặt thế gian chính là nguồn gốc của mọi khổ đau. Phải sống một cuộc sống thiểu dục, vô vi, thì thân tâm sẽ được tự tại.

    - Điều thứ ba: Phải thường xuyên quán chiếu tâm mình để thấy rằng, suốt ngày nó chỉ một mực lo tham cầu và tạo tội lỗi, không biết nhàm chán. Phải biết an vui trong nếp sống đạm bạc, biết đủ, để có thể hoàn thành sự nghiệp trí tuệ.

    - Điều thứ tư: Phải siêng năng làm các việc lành, không từ chối bất cứ việc gì làm lợi ích cho người, diệt trừ phiền não, hàng phục các ma chướng; có thế thì mới mong vượt thoát được ngục tù của năm ấm và ba cõi.

    - Điều thứ năm: Phải biết rõ rằng, sự ngu si thật là đáng sợ. Cho nên, đối với tất cả mọi ngành học thuật đều phải để tâm nghiên cứu và học hỏi; rồi lại phải phát tâm đem những điều đã học hỏi mà giáo hóa chúng sinh, khiến cho mọi loài đều được an vui.

    - Điều thứ sáu: Phải thấy rõ rằng, vì nghèo khổ mà người ta sinh nhiều oán hận. Người tu học theo hạnh bồ tát phải biết giúp đỡ họ về mặt vật chất cũng như an ủi họ về mặt tinh thần, dù ai xử tệ với mình cũng không nên khởi niệm oán hận.

    - Điều thứ bảy: Dù phải sống ở trong thế gian cũng không bao giờ để cho năm thứ dục vọng của thế gian làm chủ mình. Dù là người xuất gia hay tại gia, không bao giờ để bị nhiễm ô bởi các thứ dục lạc của thế gian. Nhất mực phải sống cuộc đời cao thượng.

    - Điều thứ tám: Không nên cầu sự an lạc cho riêng bản thân mình. Phải phát tâm đại thừa, cứu độ tất cả chúng sinh xa lìa đau khổ, cùng được an lạc.

    Nhân lời thưa hỏi của tôn giả A Na Luật mà Phật khai thị tám điều tu tập của hạnh bồ tát. Rất nhiều người đã nương theo đó mà tu tập, cải thiện được đời sống, làm cho thân tâm được tự tại an lạc.

  4. #4
    ChanLy
    Guest

    Re: Gương Sáng/Tối trong Tăng đoàn Phật giáo

    NHỮNG CẢNH NGỘ OÁI ĂM TRÊN ĐƯỜNG HÀNH HÓA:

    Sau khi chứng ngộ, với cá tính cẩn trọng cố hữu, Ưu Ba Li càng giữ gìn nghiêm mật tất cả những giới điều Phật đã chế ra, mọi cử chỉ hành vi trong các sinh hoạt đi đứng nằm ngồi hằng ngày đều theo đúng oai nghi tế hạnh. Bởi vậy, chẳng bao lâu tôn giả đã được đại chúng tôn xưng là vị thượng thủ giữ gìn giới luật bậc nhất của giáo đoàn. Những ai có tâm tu hành chân chính đều tỏ lòng hoan hỉ và cung kính đối với tôn giả. Tuy nhiên, trong giáo đoàn vẫn có những vị sống buông thả, không theo qui củ, không giữ gìn giới hạnh, cho nên không thích gần những người chuyên tâm giữ giới như tôn giả. Đó cũng là lẽ đương nhiên. Những người này đã không có thiện cảm với tôn giả, lại đôi khi còn nói những điều không tốt cho tôn giả!

    Một vị tì kheo có giới hạnh, khi lưu trú tại tu viện thì được những người ngưỡng mộ đến tận cửa cúng dường; nhưng khi vị ấy đi du phương hành hóa thì không chắc chắn là sẽ được mọi giới tăng cũng như tục hoan nghênh. Một lần nọ, tôn giả và một nhóm quí vị tì kheo có giới hạnh khác cùng lên đường đi các nơi hằng hóa. Để phát huy tinh thần tuân thủ giới luật, họ thường cử hành đúng đắn các phép yết ma sám hối như yết ma quở trách, yết ma tẩn xuất, yết ma y chỉ v.v... Nhưng có một số vị tì kheo nghe tin Ưu Ba Li sắp đến thì trong lòng không thích. Họ cùng nhau bàn bạc. Một vị nói:

    - Khi lão tì kheo Ưu Ba Li đến đây thì chỉ có việc là bắt chúng ta phải làm như thế này, không được làm như thế kia, sẽ làm chúng ta bực mình lắm. Chi bằng hãy tìm cách ngăn chận, không để cho lão ta đến thì hơn.

    Một vị khác đề nghị:

    - Khi nào lão ấy đến, chúng ta hãy đóng chặt cửa ngõ lại, lấy ngọa cụ treo ngoài cửa, đừng ngó ngàng gì tới lão.

    - Hay là, khi nào lão ấy tới thì chúng ta bỏ đi nơi khác quách!

    Tôn giả đã vài lần gặp phải hoàn cảnh như vậy, cho nên cũng có lúc nghĩ lại, không muốn đi du phương bố giáo nữa; nhưng Phật thì vẫn khuyến khích tôn giả hoài.

    Rồi một lần, một vị tì kheo tên là Du Lan Nan Đà, bỗng nhiên đến mắng ngay mặt tôn giả:

    - Ông không phải là người chân tu! Sao ông cứ hay gây sóng gió quá vậy! Lúc nào cũng theo bên Phật để bày vẽ nhiều chuyện nọ kia, khi thì “đây là hai bộ tăng phải giữ gìn, kia là một bộ tăng phải giữ gìn”; lúc thì “điều này nên làm, điều kia không nên làm”, làm cho cuộc sống của chúng tôi càng thêm phiền phức, khó khăn!

    Gặp những trường hợp như vậy, tôn giả chỉ biết nhẫn nhục mà không hề đối đáp lại. Những người có lòng tin chân chính và có tâm thành giữ giới thì luôn luôn tôn kính tôn giả; trái lại, những người tu hành không chân thật thì không ưa tôn giả. Bởi vậy, Phật lúc nào cũng rất quan tâm đến tôn giả. Có lần Phật hỏi thăm một vị tì kheo vừa đi hoằng hóa ở phương xa mới về:

    - Thầy có trông thấy Ưu Ba Li không?

    - Bạch Thế Tôn! Con có thấy sư huynh Ưu Ba Li đang đi các nơi để hoằng hóa.

    - Tại các nơi ấy, Ưu Ba Li có được mọi người cung kính cúng dường không?

    - Bạch Thế Tôn! Con thấy ở một vài nơi người đối với sư huynh con không được nhiệt tình lắm. Các tín đồ tại gia thì chưa từng biết sư huynh con là người giữ gìn giới hạnh nghiêm túc, còn chư vị xuất gia thì không muốn thấy mặt sư huynh con; thậm chí một số vị trong hàng ni chúng còn oán hận và mắng mỏ sư huynh con.

    Phật lo ngại hỏi:

    - Vì sao thế nhỉ?

    Vị tì kheo cứ tình thực trả lời:

    - Tại vì khọ cảm thấy, sinh hoạt chung với một vị giữ giới quá nghiêm túc thì không thoải mái tí nào!
    Phật nghe thấy thế thì không vui, liền cho triệu tập đại chúng để giảng giải về sự tôn quí của giới luật. Phật dạy, người nghiêm trì giới luật giống như ngọn đèn sáng tỏ; ai có phẩm hạnh đoan trang, thân tâm thanh tịnh thì đều thích ở chỗ sáng sủa, còn ai có điều gì ám muội thì rất sợ ánh sáng mà chỉ thích nơi tối tăm.

    Phật cũng cho mời quí vị tì kheo và tì kheo ni đã từng đối xử không tốt với Ưu Ba Li đến, và hỏi họ:
    - Quí vị đã từng không chịu đón tiếp, muốn lánh mặt, thậm chí còn oán hận mắng mỏ đại đức Ưu Ba Li phải không?

    Trước mặt Phật, họ không dám chối cãi, đành phải thú thật:

    - Bạch Thế Tôn! Thật có như vậy. Chúng con đã từng cư xử vô lễ như thế đối với sư huynh của chúng con.

    Phật nghiêm khắc quở trách:

    - Quí vị như thế là thiếu hiểu biết. Nếu không kính trọng những vị tì kheo giữ giới thì kính trọng ai! Giới luật chính là bậc thầy cao cả của quí vị. Giới luật còn được tôn trọng thì Phật pháp còn trụ thế. Nếu quí vị không tôn kính những vị giữ giới, thì điều đó chỉ chứng tỏ rằng quí vị đang ấp ủ những ý tưởng sai traí đối với giáo pháp mà thôi.

    Để bảo vệ một vị tì kheo giữ giới như Ưu Ba Li mà Phật phải khiển trách quí vị tì kheo và tì kheo ni kia một cách nặng nề như vậy, thì chúng ta thất đối với Phật, Ưu Ba Li có địa vị trọng yếu biết chừng nào!


    SỨ MẠNG HÒA GIẢI:

    Trong tăng đoàn, người tu hành chứng quả cũng đông, mà kẻ buông lung phạm giới cũng không phải là ít. Những vị tì kheo như Ca Lưu Đà Di, Đề Bà, v.v... và những vị tì kheo ni như Tu Ma, Bà Phả, Du Lan Nan Đà v.v... đều rất thường phạm giới, Những hành vi và tai tiếng không tốt của họ đã gây cho Phật nhiều ưu phiền. Bởi vậy, Phật hay nhắc nhở đại chúng hãy lấy cái hạnh giữ giới của tôn giả Ưu Ba Li làm mẫu mực hành trì.

    Tăng đoàn vốn thanh tịnh và hòa hợp. Nhưng cũng có một số vị tính tình xấu xa khó mà sửa đổi, hay tranh chấp phải trái, không nhường nhịn nhau, vừa ảnh hưởng không tốt đến sự tu hành của đại chúng, vừa làm mất danh dự của tăng đoàn. Mỗi khi có sự tranh chấp giữa các vị tì kheo ở tại một địa phương nào. Phật đều phái một vị thượng thủ đến để hòa giải. Vị được phái đi, không những là bậc đạo cao đức trọng, mà còn có khả năng xét đoán phải trái để cho sự dàn xếp lúc nào cũng được công minh. Và hầu hết các công việc hòa giải này, Phật đều giao cho Ưu Ba Li đảm trách - điển hình là những vụ tranh cãi ở các xứ Câu Diễm Di, Sa Kì v.v... Tôn giả đã trở thành một sứ giả của hòa giải, giống như nắng ấm mùa xuân, ánh sáng chiếu đến đâu thì băng tuyết tiêu tan đến đấy.
    Tôn giả luôn theo hầu bên Phật, nên rất thường ở tại Xá Vệ. Tăng chúng ở thành Xá Vệ rất hòa hợp, tại vì họ thường được kề cận bên Phật, một thầy một đạo, như nước hòa với sữa, ít khi có sự gì không vui xảy ra.

    Tôn giả lại rất hiểu tâm ý của Phật. Mỗi khi vâng mệnh Phật đi giải quyết những tranh chấp, tôn giả đều thi hành theo một nguyên tắc: “Tranh chấp ở đâu thì chấm dứt ngay ở đó”. Theo nguyên tắc này, tôn giả không bao giờ đem người và sự việc tranh chấp ở chỗ này đi nói ở chỗ khác. Chuyện thị phi xảy ra ở đâu thì giải quyết ngay ở đó. Tôn giả cũng không bao giờ để cho các cuộc tranh chấp trở nên ồn ào, lớn rộng; khi những tranh chấp đã được chấm dứt thì các vết tích cũng nhất định không còn.

    Nhưng có một lần nọ, đang trong mùa an cư, Phật sai tôn giả sang xứ Sa Kì để giúp giải quyết một vụ tranh chấp. Tôn giả đã từ thác không đi. Phật hỏi:

    - Vì sao thầy không đi?

    Tôn giả cảm thấy rằng, việc tranh chấp lần này, nếu Phật không thân hành đi giải quyết thì không thể chấm dứt được; nhưng tôn giả cũng không tiện thưa thẳng với Phật điều đó, đành cứ quanh co thoái thác:

  5. #5
    ChanLy
    Guest

    Re: Gương Sáng/Tối trong Tăng đoàn Phật giáo

    - Bạch Thế Tôn! Chiếc y của con quá nặng, nếu giữa đường bị mưa ướt thì khó mà khô được; còn nếu mang theo thêm một chiếc nữa để phòng hờ thì lại không hợp với giới pháp, vì đang trong mùa an cư. Xin Thế Tôn từ bi, miễn cho con khỏi đi lần này!

    Nghe vậy, Phật chỉ muốn tôn giả đi điều tra sự việc trước mà thôi, nên hỏi:

    - Thầy chỉ đi vài ngày rồi trở về được không?

    - Bạch Thế Tôn! Nếu quả thực con không đi không được, vì từ thành Xá Vệ đến Sa Kì phải mất hai ngày, ở lại đó hai ngày, và trở về hai ngày nữa, cả thảy phải mất sáu ngày con mới về đến đây.

    Phật gật đầu bảo:

    - Từ nay về sau, trong mùa an cư, tăng chúng được phép giữ trong người hai chiếc y trong thời gian sáu ngày, không phạm luật.

    Vì muốn nhờ Ưu Ba Li đi điều tra việc tranh chấp mà Phật cho phép sửa đổi một giới điều đã ban hành. Đó chẳng phải là đem giới pháp chiều người, nhưng vì tôn giả là người vô cùng trọng yếu về mặt giới pháp. Phật phái tôn giả đi điều tra cuộc tranh chấp, lại còn thi hành phép yết ma sám hối đối với những vị tì kheo hay gây ra các cuộc tranh chấp. Trước khi làm phép yết ma, tôn giả trịnh trọng tuyên bố:

    - Thưa chư vị đại đức! Vâng từ mệnh của đức Thế Tôn, tôi đến đây để làm các phép yết ma, trục xuất quí vị hay gây ra các cuộc tranh cãi trong đại chúng. Đến lúc đó, xin quí vị đừng buồn phiền và cũng không nên oán hận tôi.
    Một số quí vị tì kheo khi nghe giọng nói đầy quyền uy của tôn giả thì không dám ở lại đó nữa. Thà đi nơi khác chứ không dám ở đó cãi nhau, cũng không dám để cho vị chấp pháp uy nghiêm như núi kia làm phép yết ma. Nhân đó, cả một cuộc tranh cãi gay go, lớn lao trước đó, giờ liền tan biến, không còn gì nữa. Tôn giả đúng là một sứ giả của hòa bình, thật khéo léo trong việc chấm dứt các cuộc tranh chấp.

    HÒA HỢP TĂNG VÀ PHÁ HÒA HỢP TĂNG:

    Trên lập trường tuân thủ giới luật, ngoài những vấn đề liên quan đến pháp chế, nam nữ, bệnh hoạn, tôn giả Ưu Ba Li còn đặc biệt quan tâm đến vấn đề hòa hợp và phá hòa hợp tăng. Dù tăng đoàn sống trong tinh thần “Sáu phép hòa kính”, nhưng quan trọng là phải cùng giữ gìn giới thì mới sống chung được. Cho nên đối với một vị tì kheo giữ giới thì hòa hợp tăng là vấn đề được quan tâm hàng đầu.

    Một ngày nọ, lúc Phật ngự tại thành Xá Vệ, nhân để ý đến sự đoàn kết trong tăng đoàn, Ưu Ba Li đã đến trước Phật, đảnh lễ và bạch:

    - Bạch Thế Tôn! Thế nào là phá hòa hợp tăng?

    - Này Ưu Ba Li! Nếu một vị tì kheo hiểu rõ đạo lí, giữ giới luật, sống đúng như giáo pháp, thì các đệ tử của vị ấy, bất luận là xuất gia hay tại gia, đều phải cung kính, lễ bái và tu học theo sụ dạy bảo của vị ấy. Nếu có người tỏ ra khinh thị, chê cười, chế nhạo, hủy báng, đó là phá hòa hợp tăng. Nếu các tín đồ tại gia đối với tăng chúng xuất gia khởi sinh vọng tưởng phân biệt nhân ngã, hoặc khêu gợi hiềm khích để gây chia rẽ, hoặc tạo ra những chuyện rắc rối làm cho náo loạn, đó là phá hòa hợp tăng. Nếu các quan quân chính quyền dùng quyền lực để can thiệp vào nội bộ các tự viện, li gián tăng ni, đó là phá hòa hợp tăng.

    - Bạch Thế Tôn! Phá hòa hợp tăng thì phạm tội như thế nào?

    - Ưu Ba Li! Nếu phạm tội phá hòa hợp tăng, phải bị đọa địa ngục, chịu khổ trong một kiếp.

    - Bạch Thế Tôn! Thế nào là hòa hợp tăng?

    - Ưu Ba Li! Kính trọng, lễ bái, tu học theo các vị tì kheo sống đúng như giới luật, như giáo pháp, cũng như phát tâm ủng hộ, khen ngợi và xây dựng sự hòa kính cho tăng chúng, đó là hòa hợp tăng.

    - Bạch Thế Tôn! Hòa hợp tăng thì công đức gì?

    - Ưu Ba Li! Nếu hòa hợp tăng thì được sinh lên cõi trời, hưởng thọ sung sướng trong một kiếp.
    Đối với công và tội của sự hòa hợp tăng và phá hòa hợp tăng, tôn giả không phải là không biết, nhưng ở đây, ý của tôn giả là muốn gợi vấn đề lên để xin Phật đích thân nói, cốt làm tăng tầm quan trọng cho sự việc. Tôn giả đúng là một mẫu người khiêm cung, giữ phép và hiểu biết. Thái độ đó, tác phong đó của tôn giả thật đáng chúng ta kính yêu!

+ Trả lời Chủ đề

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình