Chiếc y cà sa, từ tác dụng ban đầu là vật thiết yếu của mỗi người tu sỹ trong cuộc sống tu hành, dùng để phân biệt người tu sỹ Phật giáo với các tôn giáo khác, đã được hình tượng hóa và mang một ý nghĩa thiêng liêng, biểu tượng cho những gì trân quý, cao cả nhất của Phật pháp và giáo pháp. Chiếc y cà sa không chỉ mang ý nghĩa vật chất mà đã chuyên chở các ý nghĩa tinh thần, trở thành pháp bảo độ trì cho những người con Phật tu hành theo đúng chánh pháp.

2. Ý nghĩa của chiếc y cà sa:

Xét theo góc độ ý nghĩa vật chất, chiếc y cà sa được may bằng cách ráp nối những mảnh vải vụn lượm lặt lại với nhau, theo cách này sẽ tận dụng và tiết kiệm vải rất nhiều và có thể thay các miếng khác nhau khi có miếng nào bị rách, hỏng. Và hơn thế, khi chư tăng nhận phẩm vật cúng dàng của phật tử, tùy khả năng của phật tử cúng dàng những mảnh vải lớn hay nhỏ, đều được sử dụng, mang lại lợi ích và không lãng phí. Đó cũng là sự đúc kết kinh nghiệm của các hành giả tu lâu năm trong các tu viện thanh tịnh phải tự lo lượm vải khâu may y phục cho mình. Điều đó cũng nói lên ý nghĩa khiêm nhường và giản dị của chiếc y cà sa. Tăng đoàn chủ trương không có giáo sản, chỉ sống bằng sự bố thí của tín chủ nên không đòi hỏi và sẵn sàng sử dụng những gì được phật tử dâng cúng.

Những người xuất gia tu hành mặc y cà sa hoại sắc cốt để che thân chứ không phải nghiêm sức để chau chuốt cho mình. Tăng đoàn, hoặc là mặc y cà sa chắp vá được từ các mảnh vải thừa nhặt được, hoặc là thụ nhận mọi loại vải dù là thô xấu cúng dường từ thiện tín rồi nhuộm đi để may mặc, cốt sao có y mặc mà thôi chứ không bận lòng phân biệt tốt xấu. Mỗi lần nhìn thấy chiếc y cà sa của mình vị tỳ kheo đều nhớ biết mình là người xuất gia mà lo tinh tấn với đạo nghiệp, nếu bỏ qua điều đó sẽ làm uổng phí đời sống xuất gia, uổng phí thiện tâm của đàn thí.

Người xuất gia khoác lên người chiếc áo cà sa cũng là để tự kiểm chứng bản thân mình, giúp họ luôn giữ giới, nhắc nhở họ không được tà dâm, sát sinh, trộm cắp, không sân si, bám níu… Chiếc áo ấy đem đến sự an lạc, giúp họ phát lộ lòng từ bi, giúp tăng trưởng trong tâm thức sự can đảm, tinh tấn, sức mạnh và trí tuệ để vượt qua những chướng duyên trên con đường tu tập.

Chiếc y cà sa có nhiều mảnh cũng là sự biểu trưng cho con đường tu tập hướng đến giác ngộ có nhiều thứ lớp, giai đoạn. Đức Phật đã trải qua vô lượng kỳ kiếp để đạt đến chứng quả Bồ đề. Mỗi hành giả đời sau phải liên tục tích lũy công đức, tạo phúc, sửa chữa lỗi lầm, làm cho tâm trong sạch, bảo vệ tăng đoàn trước những nghiệp chướng, biết chờ đợi đủ nhân duyên, đúng thời kỳ mới có được thành tựu. Bởi vậy, các vị tăng ni cao tăng, thạc đức thì mặc đại y đến 25 điều vì các vị đã tích lũy được nhiều công đức còn những vị mới thụ giới thì chỉ mặc đại y 9 điều thôi. Nhìn vào đại y mặc trong những lúc hành lễ cũng có thể nhận biết được phẩm trật thứ lớp trong tăng đoàn.

Tăng đoàn mang trên mình bộ y cà sa như một sự nhắc nhở phải luôn nhớ đến công ơn sâu dày của đàn tín. Các nhà tu hành được thụ thí từ sự cúng dường của phật tử để thanh thản, an tâm lo tu học đó là nhờ công lao khó nhọc biết bao người. Vậy mỗi tỳ kheo phải luôn niệm tưởng và làm sao cho xứng đáng với công ơn đó.

Chiếc y cà sa mang những giá trị tâm linh, là biểu tượng của đạo pháp do đó cũng trở nên nhiệm màu và linh thiêng. Hàng phật tử xuất gia đủ hạnh duyên được khoác lên mình chiếc y cà sa sẽ có thêm sức mạnh để ngăn ngừa những tội lỗi, đoạn trừ những phiền não, làm cho những điều xấu không thể xâm nhập vào thân thể, đồng thời chiếc y cà sa đó cũng khiến cho nhà tu hành không bị tham sân si cám dỗ, tác động, làm nảy sinh trong lòng những điều thiện và sự từ bi. Đó cũng chính là những giá trị tinh thần tốt đẹp mà đạo Phật đang vun bồi và hướng tới.

Trong Phật giáo, chiếc y cà sa còn mang một giá trị truyền thống hết sức ý nghĩa, đó là truyền thống trao truyền y bát, tức y cà sa và bình bát đựng phẩm vật. Người được thụ nhận y bát sẽ là người kế tục sự nghiệp lãnh đạo tăng đoàn của đức Phật. Truyền thống này xuất phát và được phổ biến trong Phật giáo Thiền tông. Sách Liên đăng hội yếu[viii] có thuật lại tích này như sau: Trong một cuộc hội ở trên núi Linh Thứu[ix], Đức Thế tôn giơ cành hoa ra trước mặt đại chúng mà không nói lời nào. Mọi người đều im lặng không hiểu gì, chỉ có Ngài Ma-ha-ca-diếp[x] (MahàKac’yapa) là mỉm cười. Đức Thế tôn liền nói: “Ta có chính pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn[xi] nay trao lại cho Ma-ha-ca-diếp”. Sau đó Phật đã trao truyền lại y bát cho ngài Ma-ha-Ca-diếp.

Truyền thuyết này gọi là Niêm hoa vi tiếu (Cầm hoa mỉm cười), nêu lên khái niệm về sự tinh tế và cao siêu của sự giác ngộ không thể trình bày hay diễn đạt bằng lời nói được. Yên lặng tượng trưng cho sự quán nhận trực tiếp, vượt lên trên ngôn từ và sự hiểu biết quy ước của chúng ta. Đây cũng là một đặc thù của thiền tông, vì thế ngài Ma-ha-ca-diếp được xem là tổ thứ nhất của Thiền tông trên đất Ấn Độ. Ngài Ma-ha-ca-diếp sau khi nhận y bát của Đức Phật đã lãnh đạo tăng đoàn khi đức Phật nhập diệt.

Ngài Ma-ha-Ca-diếp về sau lại trao y bát của mình cho ngài A-nan-đà. Tục lệ truyền thụ này kéo dài ở Ấn Độ cho đến tổ thứ 28 là Ngài Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma, 470 - 543), tức gần một ngàn năm sau khi Phật tịch diệt. Khi ngài Bồ-đề-đạt-ma sang truyền đạo ở Trung Quốc, ngài trở thành vị tổ thứ nhất của Thiền tông trên phần đất này. Tục lệ truyền y bát tiếp tục trên đất nước Trung Hoa cho đến tổ thứ sáu là ngài Huệ Năng (638-713), tức được thêm khoảng hai trăm năm nữa. Tổ của ngài Huệ Năng là ngài Hoằng Nhẫn (601-674) trao chiếc áo cà sa tượng trưng sự lãnh đạo tông phái cho ngài Huệ Năng, vì Huệ Năng là người thấu hiểu sâu xa hơn hết về thiền học trong số các đệ tử của tông phái. Ngài Huệ Năng kính cẩn tiếp nhận chiếc áo cà sa cao quý ấy và đồng thời cũng hiểu rằng chiếc áo tượng trưng cho lãnh đạo và uy quyền này rồi sẽ gây ra sự ganh tỵ và tranh chấp trong tăng đoàn. Ngài Hoằng Nhẫn cũng ý thức được điều ấy nên khi trao chiếc áo cho ngài Huệ Năng đã khuyên Huệ Năng bỏ trốn về phương Nam và từ đó về sau không truyền thụ y bát nữa.

Truyền thuyết trên đây có thể mang nhiều yếu tố hư cấu nhưng điều đó đã chứng tỏ sự quan trọng của chiếc y cà sa trong Phật giáo. Người được thụ nhận y cà sa và bình bát tức là đã được thụ nhận, lĩnh hội tâm pháp và sự màu nhiệm của đạo pháp để kế tục sự nghiệp của tăng đoàn. Và khi đó, y bát cũng không còn chỉ là vật dụng thông thường mà đã trở thành những giá trị tinh thần tối cao và linh thiêng của Phật giáo.

Chiếc áo cà-sa qua thời gian, không gian đã có những thay đổi để phù hợp với điều kiện môi trường khí hậu, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi vùng đất nhưng những biến đổi đó không làm mất đi những giá trị biểu trưng, những hình tượng tiêu biểu của đạo Phật. Chiếc áo cà sa vẫn luôn luôn giữ được truyền thống và phong cách hàng ngàn năm của Phật giáo, từ những tục lệ xa xưa của Phật giáo Nam tông cho đến những cải cách về hình thức của Phật giáo Bắc tông. Tất cả đều không đi ra ngoài đạo pháp và hơn thế càng làm cho hình ảnh Phật giáo trở nên thân thuộc, gần gũi, gắn bó mà vẫn trang trọng, tôn kính và thiêng liêng./.

Phúc Nguyên
[i] Nơi có thành Vương Xá là nơi Đức Phật từng thuyết pháp.
[ii] A-nan-đa là con vua Hộc Phạn, một người em họ của Phật. A-nan-đa cũng là một trong mười đại đệ tử của Phật và là người thông thái, hiểu biết số một.
[iii] Do Nguyên Chiếu, người đời Tống, Trung Quốc soạn.
[iv] Tên đầy đủ là Đại thừa bản sinh tâm địa quán kinh.
[v] Chỉ một trong ba cõi trời, nơi mọi sắc dục trần gian đều bị loại bỏ, chỉ còn sự tịch tĩnh, thanh tịnh.
[vi] Bộ kinh gồm 10 quyển do Đàm Vô Sấm người đời Lương, Trung Quốc dịch.
[vii] Chỉ ba hàng giác ngộ của đạo Phật gồm; Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát.
[viii] Do Ngộ Minh, người đời Tống, Trung Quốc soạn.
[ix] Còn gọi Linh Sơn, cách thành Vương Xá nước Ma-kiệt-đa 10 dặm về hướng Đông. Dáng núi giống hình con chim thứu (chim ó) và trên núi có rất nhiều chim thứu nên gọi là núi Linh Thứu.
[x] Còn tên gọi khác là Ca-diếp, Ca-nhiếp là một trong mười đại đệ tử của Đức Phật
[xi] Tất cả đều chỉ những diệu lý pháp giới của đức Phật – đấng Giác Ngộ Toàn Năng mà hạng phàm phu mê vọng không có cách nào có và nhìn thấu được. Đây cũng được coi là tâm ấn của Thiền tông theo phương pháp “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự” (Truyền riêng ngoài giáo điển, không dùng văn tự).