Cách đây hơn 2600 năm, Thái Tử Tất Đạt Đa nửa đêm lặng lẽ giã từ cha già, mẹ yếu, vợ đẹp, con xinh, kinh thành Ca Tỳ La Vệ và thần dân trăm họ để xuất gia tầm Đạo. Sau khi vượt khỏi dòng sông Anoma rì rào sóng vỗ, “Thái tử gò mạnh dây cương nhảy xuống ngựa: con đường mòn tới đây là dứt nẻo. Ngài trao cương ngựa cho Xa-nặc, từ biệt:

Ta rất cám ơn người. Tình ta đối với người rất nặng và ta nhớ mãi cái ơn này. Ta nhờ ngươi dắt con Kiền-trắc về; và đây, tấm áo hoàng vương mà ta không cần đến nữa; đây, sợi dây lưng nạm ngọc, và nắm tóc mây mà ta đã cắt với lưỡi kiếm này, ta nhờ ngươi đem về dâng cho phụ hoàng và tâu với ngài hãy tạm quên ta cho đến ngày ta trở về…” [1]
Sau đó, Thái Tử tự cắt bỏ râu tóc và mặc y phục sa-môn. Đó là chiếc cà sa đầu tiên trong Phật Giáo. Bồ Tát Tất Đạt Đa trong giai đoạn xuất gia tu tập đã lượm vải bô chằm vá để tạo thành áo cà sa mặc che nắng che mưa :

Áo đã mặc nhiều năm rách rã
Lượm vải bô chằm, vá, khiếu, khâu
Khẽ khầm từng miếng kế đâu
Thành Y bá nạp ngõ hầu che thân.
[2]

Chiếc cà sa đó đánh dấu một sự thoát ly vĩ đại : một Thái Tử tột bực cao sang có tất cả lại giã từ tất cả để xuất gia tìm chơn lý. Đó là một sự thoát xác tận gốc rễ làm lay chuyển ý thức phân biệt giai cấp nặng nề của Ấn Độ : một Thái Tử đã cởi bỏ hoàng bào của giai cấp Sát Đế Lợi khoác lên mình một mảnh cà sa không giai cấp. Rồi từ đó, chiếc cà sa ấy gắn liền với đời sống tu học của Bồ Tát trong 6 năm, chịu đựng bao nhiêu cào xước bởi gai góc của núi rừng khe lạch trên đoạn đường dài tầm Thầy học Đạo, nhuốm đượm phong sưong bởi thời tiết khắc nghiệt của Ấn Độ nơi đỉnh Tuyết Sơn qua bao ngày đêm miệt mài tu niệm. Chiếc cà sa ấy đơn sơ nhưng cao quý vì nó che chở cho một hành giả quên thân vì Đạo Pháp, chứa đựng một tâm hồn cao thượng, một ý chí không thối chuyển, một trái tim trải yêu thương đến vạn loài, đang hun đúc cho Trí Tuệ rạng ngời. Rồi một đêm, đêm thứ 49 dưới gốc cây Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng, chiếc cà sa ấy đã trở thành huỳnh y rạng rỡ chói sáng bởi Ánh Đạo Vàng giác ngộ vừa phát minh, lung linh ngàn sắc hoa tươi thắm do chư Thiên cúng dường, cà sa thay sắc màu và Bồ Tát Tất Đạt Đa lên ngôi : Ngôi vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Theo Luật Tứ phần, sau khi Ðức Phật chuyển Pháp luân tại Lộc Uyển (Isipatana – Sarnath), độ năm anh em ông Kiều Trần Như trở thành năm vị đệ tử Tỳ Kheo đầu tiên, “Một thời Thế Tôn ở trong vườn Lộc dã, nước Ba-la-nại. Bấy giờ có năm tỳ-kheo đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ sát chân rồi đứng lui qua một bên, bạch Phật:

«Chúng con nên thọ trì loại y nào?»

Đức Phật dạy:

«Nên thọ trì y phấn tảo và mười loại y như: câu-xá, kiếp-bối, khâm-bạt-la, sô-ma, xoa-ma, xá-nâu, ma, sí-di-la, câu-nhiếp-la, thẩn-la-bát. Mười loại y như trên nhuộm thành màu sắc ca-sa để thọ trì.” [3]

Phấn tảo y (Pamsukùla) là y được chấp nối bằng những mảnh giẻ rách chủ yếu là do lượm được từ các đống rác, đống phân (midden) hoặc bãi tha ma, “…một y thuộc một trong những loại sau: vải lấy từ nghĩa đại, từ cửa hàng, từ đường cái, từ hố phân, từ giường trẻ, vải tẩy uế, vải từ chỗ tắm, vải đi về nghĩa địa, vải bị cháy, bị gia súc ăn, bị kiến ăn, bị chuột ăn, vải rách ở biên, rách ở đầu, vải làm cờ, vải bỏ từ điện thờ, y của nhà khổ hạnh, vải từ cuộc lễ, vải do thần thông biến hoá, vải trên xa lộ, vải gió bay, vải do thiên thần bố thí, vải trôi giữa biển, lấy một trong những thứ vải này vị ấy nên xé bỏ những mảnh rách nát, giặt sạch những mảnh lành lặn để làm thành một cái y” [4]

Nhuộm y thành màu ca sa là như thế nào? Cà sa (kàsàya) là những loại vải đã không còn giữ được màu sắc chính, đã được nhuộm bằng nước do các vỏ cây giã ra, đặc biệt là từ gỗ và vỏ cây mít băm vụn và đun trong nồi. Những tấm vải này có màu vàng nâu nên được gọi là hạt sắc y hay hoại sắc y.

Câu chuyện về những kỳ tích của vị danh y Kỳ Bà (Jivaka), ngự y của vua Bình Sa Vương (Bimbisara) và sau này là bác sĩ riêng để chăm sóc Đức Thế Tôn, đã cho chúng ta biết ai là người đầu tiên cúng dường Y đến Thế Tôn và Ngài bắt đầu cho phép Tỳ Kheo nhận vải và Y cúng dường từ lúc nào :

Khi vua Ba La Thù Ðề (Pajjota) của xứ Úy-thiền (Ujjeni) được danh y Kỳ Bà chữa khỏi một cơn bệnh ngặt nghèo, vua đền ơn vị danh y này với một tặng phẩm là một chiếc y vô cùng quý giá, trị giá bằng phân nửa nước Úy Thiền. “Một hôm, Kỳ-bà Đồng tử mang chiếc y quý giá đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên, bạch đức Thế Tôn:

«Con trị bệnh cho Quốc vương, trị bệnh cho Đại thần, hoặc được một quốc độ, hoặc được một tụ lạc. Cúi xin đức Thế Tôn cho một ước nguyện.»

Đức Phật dạy:

«Ta không hề cho ai ước nguyện mà vượt quá điều nguyện.»
Kỳ-bà Đồng tử lại thưa:

«Con xin một ước nguyện thanh tịnh.»
Đức Phật dạy:

«Nguyện thanh tịnh ấy là gì?»

Kỳ-bà Đồng tử thưa:

«Chiếc y quý giá này, con nhận được từ Vua Ba-la-thù-đề, giá trị bằng phân nửa nước. Cúi xin đức Thế Tôn ai mẫn, vì con nạp thọ. Từ nay về sau, nguyện đức Thế Tôn cho phép các tỳ-kheo nào muốn khoác y của đàn-việt cúng, hay y phấn tảo, thì tùy ý được mặc.»

Bấy giờ, đức Thế Tôn chấp thuận bằng cách im lặng. Kỳ-bà Đồng tử được đức Thế Tôn chấp thuận, liền đem bình nước rửa bằng vàng rửa tay đức Phật, rồi đem chiếc y rất quý giá dâng lên Ngài. Đức Phật vì lòng từ mẫn nên vì ông mà nhận. Kỳ-bà Đồng tử đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật vì Kỳ-bà Đồng tử nói các bài pháp, khiến sanh hoan hỷ, rồi Kỳ-bà Đồng tử lễ Phật cáo lui.

Bấy giờ, đức Thế Tôn vì nhơn duyên này tập hợp các Tăng tỳ-kheo, vì các tỳ-kheo, mà tùy thuận nói pháp, ngài dùng vô số phương tiện khen ngợi hạnh đầu đà, nhiếp trì oai nghi, thiểu dục tri túc, có trí tuệ, ưa nếp sống xuất ly. Đức Phật bảo các tỳ-kheo:

«Tất cả các loại y quý giá, y nầy là bậc nhất. Như bò cho ra sữa, trong sữa cho ra lạc, trong lạc cho ra tô, trong tô cho ra thục tô, trong thục tô cho ra đề hồ là tinh chất đệ nhất. Y nầy cũng như vậy, trong tất cả các loại y nó là đệ nhất. Từ nay về sau, cho phép các tỳ-kheo tùy ý khoác y của đàn-việt dâng cúng, hay y phấn tảo.» [5]

Sau này, mặc Phấn tảo y (pamsukùla) là hạnh đầu tiên trong 13 hạnh Đầu Đà (Dhutanga-niddesa) được tôn trọng gìn giữ một cách tự nguyện bởi một số vị Đại Đệ Tử của Đức Phật, đặc biệt là Tôn giả Ma Ha Ca Diếp (Mahà Kassapa), người duy nhất trong Pháp Hội Linh Sơn thấu đạt ý nghĩa “niêm hoa vi tiếu” và được Phật truyền tâm ấn, vị chủ xướng triệu tập và chủ tọa Kỳ Kiết Tập Kinh Điển lần thứ nhất tại hang Thất Diệp (Saptaparna), trong núi Tỳ bà la (Vebhara) gần thành Vương xá (Ràjagaha) ba tháng sau khi Thế Tôn viên tịch, và vị được xem là Tổ Sư đầu tiên trong số 28 vị Tổ Tây Thiên (Ấn Độ).

Hạnh phấn tảo y: được thọ trì bằng cách thốt lên một trong hai lời nguyện này: "Tôi từ chối những y do gia chủ cúng" hoặc “tôi nguyện giữ khổ hạnh phẩn tảo y".

Quần chúng hay tin Đức Thế Tôn cho phép Tỳ Kheo được mặc y áo cúng dường rất đỗi vui mừng bởi vì lâu nay họ mong mỏi như thế nên cúng dường chư Tăng rất nhiều y có khi chư Tăng chở cả xe về Tịnh Xá. Vì vậy, Đức Phật chế ra giới luật để hạn chế việc cúng và nhận Y :

“Khi Phật an trú tại một tinh xá có lầu gác trong rừng Ðại Lâm, nói rộng như trên. Bấy giờ, trưởng lão Nan Ðà và Ưu Ba Nan Ðà du hành các thôn xóm rồi chở về đầy xe các thứ vải vóc phẩm vật đã nhận được. Sáng sớm hôm ấy, Thế Tôn nghe tiếng xe chở nặng, biết mà vẫn hỏi các Tỳ kheo: "Tiếng xe gì vậy?".

Các Tỳ kheo bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Ðó là tiếng xe của trưởng lão Nan Ðà và Ưu Ba Nan Ðà du hành tại các thôn xóm đã nhận được nhiều vải vóc và phẩm vật chở về".

Khi ấy, Thế Tôn bèn suy nghĩ: "Các đệ tử của Ta tìm cầu nhiều y vật đến như vậy nhỉ!"Sau đó vào một đêm mồng tám giữa mùa đông, tuyết sa rất lạnh, đầu đêm Thế Tôn mặc chiếc áo nhập vào thiền có giác, có quán, đến lúc nửa đêm cảm thấy hơi lạnh, Thế Tôn bèn mặc chiếc áo thứ hai, nhưng đến cuối đêm, lại cảm thấy lạnh hơn, bèn mặc thêm chiếc áo thứ ba. Thế rồi, ngài suy nghĩ: "Các đệ tử của Ta chỉ cần mặc ba y (áo) là đủ ngăn ngừa những khi quá lạnh, quá nóng, đề phòng muỗi mòng, che khuất sự hổ thẹn, không làm tổn thương đến thánh thể. Nếu ai không chịu nổi rét lạnh thì Ta cho phép mặc thêm những chiếc áo cũ kĩ".