Chính vì thế mà nơi quẻ Phục có câu: «Phục kỳ kiến Thiên Địa chi tâm hồ?» Con người biết đàng trở về là khi thấy được trong lòng mình có Thiên Địa chi tâm.

Con người thường đi theo chiều Thuận từ bé đến khoảng 35 tuổi. Rồi từ 36 đến già sẽ đi theo chiều nghịch, nếu có duyên may, hiểu đạo.

Con đường trở về Nho gia gọi là Phản Cung, hay Phản Thân, tức là quay lưng lại với thế giới vật chất, và hướng về thế giới tinh thần, về Thái Cực, Vô Cực.

Âu Châu gọi «hướng ngoại trục vật» là Extroversion. Gọi «hướng nội hồi Thiên» là Introversion. Gọi «phản quan» hay «nội quan» là Introspection.

Phật giáo gọi Chiều Nghịch là «Nội quan» hay «Nội quan quán chiếu».

Nhìn sang phía Trời Âu, ta thấy nhiều triết gia cũng đã đề cập đến hai chiều Thuận Nghịch của cuộc tiến hóa.

Hegel mô tả đại khái như sau: Tinh Thần thoạt kỳ thủy xuất phát để phá tán vào vạn vật, rồi qua nhiều thời kỳ văn minh, nhiều chặng đường lịch sử vất vả, lại phục hồi được chân thể, về được với Thượng đế.

Các triết gia Alexandrin và Thomist cũng chủ trương một vòng tuần hoàn từ Thượng Đế xuống, rồi dần dần quay lại.
Denis Areopagites một triết gia và một nhà huyền học Âu Châu thế kỷ thứ 5 Công Nguyên cũng chủ trương vũ trụ vận chuyển theo hai chiều: chiều sinh hóa từ Thượng đế phát ra, và chiều phản bản qui nguyên, trở về với Thượng Đế.


Gần đây, Claude Tresmontant cũng viết: «Có một vấn đề siêu hình thường ám ảnh tư tưởng Âu Châu: Đó là sơ đồ một vòng tuần hoàn từ Nhất sa đọa xuống Vạn, rồi từ Vạn lại phản hoàn về Nhất.»

Hai chiều Thuận, Nghịch của vũ trụ cũng dần dà được các khoa học gia xác định.
Chiều Thuận tức là chiều Dương tiêu, âm trưởng đã được Carnot Clausius chứng minh. Quan niệm này được gọi là Nguyên Lý thứ hai của Nhiệt Động Học, hay nguyên lý Carnot-Clausius. Nguyên lý này đại khái như sau:

a. Năng lực trong vũ trụ có một số lượng nhất định.
b. Năng lực có thể phân tách thành hoạt lực, và tiềm lực.
c. Khi tác dụng hoạt lực sẽ tiêu hao, suy giảm dần và không thể phục hồi nguyên trạng.
d. Rốt cuộc, hoạt lực sẽ tiêu hao dần và có một lúc sẽ triệt tiêu.
e. Khi ấy, tiềm lực sẽ tăng lên đến mức tối đa (Maximal Entropy), nhưng vô dụng, và thế giới sẽ tận số trong im lìm, lạnh lẽo.

Mới đầu các khoa học gia tưởng thế giới chỉ chuyển động theo một chiều nói trên. Dần dà, các nhà sinh lý học (biologist) và các nhà sáng tạo các máy móc tự động (Cybernetician) đã nhận thấy rằng Nguyên Lý Carnot-Clausius chỉ áp dụng cho vật chất vô tri, chứ không áp dụng cho sinh vật, nhất là cho con người.

Trong con người rõ ràng có hai chiều biến chuyển:

– Tiêu (Catabolism): Chiều thuận.
– Tức (Anabolism): Chiều nghịch.

«Đi theo chiều thuận, trong thì bị thất tình, lục dục làm mê muội, ngoài thì bị trăm điều, nghìn việc quấy đảo tâm thần, lấy giả làm chân, lấy tà làm chính, lấy khổ làm vui, cứ bị lôi cuốn theo dục vọng, cho đến khi tiêu hao hết tinh thần.
«Người đại trí, đại tuệ đi theo chiều nghịch sẽ thoát vòng kiềm tỏa của các định luật tạo hóa, sẽ không còn bị âm dương nung nấu, không còn bị vạn vật lôi cuốn, dùng đời để tu đạo, lấy nhân đạo để chu toàn Thiên Đạo.

«Nghịch đây là trở về với Tuyệt đối Thể y như một kẻ bỏ nhà ra đi thật xa xôi, nay trở lại nhà. Tuy gọi là «Nghịch Hành», nhưng thực là đi theo đúng lẽ Trời, đó là «cái đại thuận» trong cái nghịch. Nghịch đây bất quá là đi ngược với đường lối của thế nhân thông thường.»
Dịch kinh trọng chiều nghịch và dạy người quân tử đi theo chiều nghịch, vì thế gọi Dịch là Nghịch Số.

Lão tử trọng chiều nghịch, vì thế mới nói «Phản giả đạo chi động». (Đạo Đức Kinh, chương XL)

Các đạo gia cũng hết sức trọng chiều nghịch.
Các ngài chủ trương cần phải băng qua hào quải (Hoàn cảnh) trở về Thái Cực, băng qua hiện tượng trở về Tuyệt đối. Các ngài chủ trương muôn loài rồi ra cũng trở về với Tuyệt đối.
Các Ngài chủ trương muôn loài rồi ra cũng trở về với Thái Cực.
Ngộ Chân trực chỉ có thơ:

Vạn vật vân vân các phản côn,
萬 物 芸 芸 各 返 根
Phản côn, phục mệnh tức trường tồn.
返 根 復 命 即 常 存
Tri thường, phản bản, nhân nan hội,
知 常 返 本 人 難 會
Vọng tác chiêu hung vãng vãng văn.
妄 作 招 凶 往 往 聞
Dịch:
Vạn vật rồi ra cũng phản côn,
Phản côn, phục mệnh sẽ trường tồn.
Tri thường, phản bản người đâu rõ,
Nên mới chiêu hung, sống mỏi mòn.
Lưu Nhất Minh có thơ:
Huyền quan nhất khiếu thiểu nhân tri,
玄 關 一 竅 少 人 知
Hoảng hốt yểu minh hàm lưỡng nghi.
恍 惚 杳 冥 含 兩 儀
Thuận khứ qui lưu phiền não lộ,
順 去 歸 流 煩 惱 路
Nghịch lai tiện thị thánh hiền ki.
逆 來 便 是 聖 賢 基
Dịch:

Huyền quan một khiếu, ít người tri,
Phảng phất mơ màng đủ lưỡng nghi.
Đưa đẩy xuôi dòng vương khổ não,
Ngược chiều, hiền thánh tạo căn ki.


Trên đây đã:

1. Minh xác hai chiều thuận nghịch, cùng ý nghĩa và mục địch của hai chiều thuận nghịch.
2. Đề cao Chiều Nghịch và nhận chân Chiều Nghịch là chiều sinh tiên, sinh thánh, sinh thần.
Tuy nhiên con người sinh ra đời không phải lúc nào cũng theo được chiều nghịch, mà cũng có lúc phải theo chiều thuận.

Theo thiển ý tôi, một cuộc

ống lý tưởng nhất của con người sẽ gồm cả hai chiều thuận nghịch.

Lúc tuổi trẻ (1–35 tuổi), theo chiều Thuận, chiều Hướng Ngoại, từ tinh thần tiến ra vật chất, ra ngoại cảnh, ra xã hội để mưu sinh, cải tạo hoàn cảnh, góp phần xây dựng giang sơn, đất nước. Nửa đời sau (36–80, 90 tuổi), khi đã công thành, danh toại, sẽ đi chiều nghịch, từ vật chất ngoại cảnh, tiến sâu về phía tâm linh, để thần thánh hóa bản thân, phối hợp với Thái Cực.

Sách Đạo Nguyên Tinh Vi Ca cho rằng:

Trước xuống, sau lên hợp tự nhiên.

Như vậy, là biết hồi hướng phải thời, đúng lúc, theo đúng nhẽ tuần hoàn, vãng lai, phản phúc của Dịch Kinh, và của trời đất.

Lúc trở vào nội tâm, lúc đi theo Chiều Nghịch, thì mọi sự đều nghịch đảo hết:

Cái gì xưa kia cho là quan trọng, nay trở thành tầm thường; cái gì xưa cho là tầm thường nay trở nên quan trọng.

Lúc ấy, Con người thực tế (le moi empirique; The empirical self) nhường bước cho con người lý tưởng (le moi Idéal; The ideal self).

Thượng đế ngoại tại (God without), sẽ trở thành Thượng đế nội tại (God within).

Thượng đế xưa kia xa cách, nay trở thành thân mật, gần kề.

Người ngoài trông vào, tưởng ta bỏ thực, cầu hư.

Ngược lại, ta biết chắc mình đã bỏ hư, cầu thực.

Đi theo chiều thuận, hướng ngoại, hoạt động bên ngoài là đi theo đời, «đi đời».

Đi theo chiều nghịch, hướng nội, sống một đời sống tinh thần súc tích bên trong, là đi theo đạo, «đi đạo».

Bổn Phận con người:
Thực Hiện Tính Trời.
Trở nên Hoàn Thiện


Các nhà huyền học xưa nay đều chủ trương: Trời Đất, vạn vật chẳng qua là thiên hình, vạn trạng của một Thực Thể duy nhất, của Tuyệt Đối Thể.

Tuyệt Đối Thể này là hiện thân của Thượng Đế siêu việt, bất khả tư nghị.

Tuyệt đối Thể này mỗi nơi kêu bằng một danh hiệu, hoặc là Đạo, là Chân Tâm, là Thái Cực, là Logos. Tuyệt Đối Thể này là một Thực Thể duy nhất bao quát cả hai phương diện Tinh Thần và Vật Chất.

L.M. Teilhard de Chardin gọi Tuyệt Đối Thể này là Nguyên Thể Vũ Trụ. Nguyên Thể này có 2 phương diện Vật Chất và Tinh Thần y như chủ trương của Dịch Kinh: Thái Cực sinh Âm Dương. Nhất thể ấy sinh xuất ra quần sinh, quần sinh lại tiến hóa qui hướng về Nhất Thể,
Nhất tiến ra Vạn, rồi Vạn lại qui về Nhất, theo nhịp điệu thời gian. Cho nên trong Trời
Đất đâu đâu cũng tràn đầy lẽ biến dịch. Biến dịch theo hai chiều, hai hướng: hoặc là phân tán đào thải, hoặc là kết tụ, súc tích để tiến tới tinh hoa, trở về Nguyên Bản. Như vậy dưới những lớp lang biến thiên của vũ trụ, dưới những hình thức biến thiên của Tâm Hồn, còn có một thực thể viên mãn, hằng cửu, viên mãn, bất diệt.

Mọi công cuộc giáo hóa, tu trì là cốt chỉ vẽ cho con người nhìn nhận cho ra được Bản Thể tuyệt đối, bất diệt và hằng cửu ấy.

– Muốn tìm Tuyệt Đối hằng cửu, bất diệt phải trở về đáy lòng.
– Muốn tìm Bồ Đề, Niết Bàn phải tìm nơi tâm khảm: Đó là Chủ Trương của Thiền Tông
– Chu Hi và Nho gia chủ trương:

«Quay về ta mà tìm Đạo ấy,
Tìm đáy lòng sẽ thấy chẳng sai.»
(Trung Dung, chương 1, chú thích của Chu Hi)


Theo các nhà huyền học Á Đông thì vũ trụ và vạn vật thảy đều biến hóa không ngừng.
Cho nên con người cũng phải luôn biết biến hóa hoàn cảnh để cho đời sống vật chất thêm đẹp tươi.

Biến hóa tâm tư, cải thiện đồng loại, để xã hội ngày thêm công bình, hòa hiệp.
Biến hóa tâm thần để trở thành Tiên Phật Thánh: Phối Thiên, Phối Mệnh kết hợp cùng Thượng Đế.

Tuyệt Đối Thể vừa là Căn Nguyên vừa là cùng đích muôn loài, cho nên muôn loài phải tiến hóa để tiến dần về Cực Điểm Tinh Hoa ấy.

Lão Tử viết:


«Muôn loài sinh hóa đa đoan,
Rồi ra cũng phải lai hoàn bản nguyên.
Hoàn Bản Nguyên an nhiên phục Mệnh,
Phục Mệnh rồi trường vĩnh vô cùng.
(Đạo Đức Kinh, chương XVI)


Tất cả lẽ Dịch là «Nhất tán vạn, Vạn qui Nhất», phản phúc, vãng lai, từ Thái Cực phát xuất ra Vạn Hữu, rồi từ Vạn Hữu lại tiến hóa Biến Thiên để trở về Thái Cực. Thế là «Thiên Địa tuần hoàn chung nhi phục thủy». Thế là «Thủy Chung như Nhất».

Thủy hay Chung vẫn chỉ là một Thái Cực, khác nhau nguytên ở hai thế Ẩn và Hiện, Ẩn lúc ban sơ, Hiện lúc Chung Cuộc. Giữa Thủy và Chung là lịch trình biến thiên tiến hóa của Vũ Trụ theo lẽ Vãng Lai, phản phúc, tuần hoàn.

Vạn sự từ trung tâm phát xuất, trước sau cũng phải trở về Trung Tâm.

Trở về được Trung Tâm là Hoàn Nguyên, Phản Bản, thành Thánh Thần Tiên Phật, bỏ được Phàm Tâm, bước lên được bình diện Thiên Tâm, bỏ được Tiểu Tri, Tiểu Kiến, trở thành những bậc Đại Giác, Đại Ngộ.

Nhân tử NVT